Trang chủ > Chiến tranh Việt Nam > Côn Đảo những ngày tháng 4-1975…

Côn Đảo những ngày tháng 4-1975…

Tháng Chín 24, 2011

Côn Đảo là “đảo tù” nổi tiếng suốt trong 113 năm (1862 – 1975). Ðại thắng mùa Xuân 1975 trở thành mốc son lịch sử, biến Côn Ðảo, từ “địa ngục trần gian” thành hòn đảo Tự Do! Ra Côn Ðảo, tôi được nghe rất nhiều chuyện cảm động về những ngày tháng 4-1975 lịch sử ấy.

Tháng 4-1975, trên đảo có 7.448 tù nhân bị giam giữ. Dường như anh em tù nhân không hề có thông tin gì về Cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975 bắt đầu từ trận giải phóng Buôn Ma Thuột! Nhưng anh em cũng cảm nhận được tình hình Ðảo lúc này khác thường lắm. Ðịch cho tu sửa đường, đào đắp công sự, ụ súng trên các sườn núi quanh các trại tù. Vài ngày chúng lại tổ chức khám xét và di chuyển tù nhân từ trại này sang trại khác, cấm trao đổi nói chuyện. Chúng thu lượm tất cả các những tờ báo cũ, mảnh giấy gói đồ… nhằm bịt kín tin tức về cuộc tiến công “tốc chiến tốc thắng” của quân ta ở đất liền.

Anh Bảy Oanh, tù nhân lúc đó, nay là Trưởng Ban quản lý Di tích Côn Ðảo kể, trong các ngày 29, 30-4, trên trời Côn Ðảo, tiếng máy bay Mỹ gầm rú liên hồi. Nhiều tù chính trị làm khổ sai nay bị chúng đưa trở lại các phòng giam cấm cố, anh em tù chính trị xuống làm bếp buộc phải vô lại trại giam. Ðịch đóng kín mít tất cả các cửa phòng giam, việc đổ thùng cầu hay tắm mỗi ngày 15 phút bị bãi bỏ! Anh em đoán chắc có chuyện gì đó nên địch bưng bít tin tức.

Lúc này, máy bay Mỹ chở người từ Sài Gòn ra náo loạn bầu trời. Hàng hóa nhu yếu phẩm tăng giá vùn vụt. Máy bay tranh nhau lên xuống sân bay Cỏ Ống, chở quân, tướng Mỹ, ngụy di tản. Ca-nô, tàu há mồm cập bãi Cỏ Ống chuyển người ra các tàu Mỹ đang đậu ngoài khơi. 16 giờ 30 phút ngày 29-4, 26 tên cố vấn Mỹ và chư hầu rút chạy. Ðêm 29-4, chúa đảo lúc ấy là tên trung tá Lâm Hữu Phương lái xe chở vợ con hắn qua khu Bến Ðầm, bí mật xuống ca-nô trốn ra tàu di tản, bỏ lại 1.500 sĩ quan cấp dưới, lính, cai tù… đang nhớn nhác, lo sợ. Tên Phạm Huỳnh Phương, phó đảo đã họp với bọn quyền thế trên đảo cùng đám gác ngục ác ôn nhất như Lê Văn Khương, Ðỗ Văn Phục bàn cách đối phó. Chúng quyết định khóa chặt các phòng giam, bố trí canh gác nghiêm ngặt. Tổ chức di tản quân lính ra tàu ngoài khơi bằng mọi phương tiện. Chúng lên phương án thủ tiêu toàn bộ tù chính trị trên đảo bằng lựu đạn vào giờ chót… Nhưng tin Dương Văn Minh đầu hàng, Sài Gòn giải phóng làm cho chúng suy sụp, kinh hoàng tháo chạy. Cuộc di tản hỗn loạn trên đảo kéo dài suốt đêm 30-4…

Nửa đêm ngày 30-4, đại úy ngụy Kiều Văn Dậu, Trưởng ty thanh niên Nguyễn Văn Ðồng cùng anh Nguyễn Văn Sơn, (anh Sơn là đặc tình mang bí số T31 của ta trong hàng ngũ công chức nhà lao), đã vào trại 7, họ mở khóa cửa phòng 24, Khu H, báo tin: “Tổng thống Dương Văn Minh đã đầu hàng, bọn ác ôn trên đảo đã bỏ chạy hết, bọn quân phạm, lưu manh đang cướp bóc, gây rối loạn trên đảo”. Nhóm Kiều Văn Dậu yêu cầu “anh em tù chính trị ra giải phóng Côn Ðảo để ổn định trật tự”. Anh em tù yêu cầu đưa radio tới. Sau khi nghe Ðài Tiếng nói Việt Nam phát bản tin “Dương Văn Minh đầu hàng, Sài Gòn hoàn toàn giải phóng…”, anh em sung sướng đến bàng hoàng. Ðó là thời khắc mà những người tử tù Côn Ðảo biết mình đã thoát khỏi ” địa ngục trần gian”!

Tù nhân chính trị Khu H lập tức tịch thu chìa khóa Trại 7 ở tay trưởng trại Hai Rồng, chạy đi mở các cửa phòng giam. Anh em tù nhân hò reo vang dội. Nhiều phòng chưa kịp mở khóa, anh em đã bẻ song sắt, phá cửa ra. Ðến ba giờ sáng ngày 1-5, cả tám khu của Trại giam 7 được giải phóng. Thoát khỏi Chuồng Cọp số 30 khu F, đồng chí Phan Huy Vân (tức Trần Trọng Tân (Hai Tân) – sau này là Ủy viên Trung ương Ðảng, Trưởng Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Phó Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh) đã đến ngay bệnh xá của Trại 7 gặp đồng chí Trịnh Văn Tư để bàn kế hoạch giải phóng đảo. Một Ðảo ủy được thành lập do anh Trịnh Văn Tư làm bí thư và đồng chí Hai Tân phó bí thư. Một “Ủy ban Hòa hợp hòa giải dân tộc Côn Sơn” gồm 15 người, nòng cốt là anh em tù chính trị cũng được thành lập. Linh mục Phạm Gia Thụy được mời làm chủ tịch! Trưa 1-5, Tiểu đoàn vũ trang cách mạng đầu tiên của Ðảo ra đời với số súng đạn thu được từ các trại lính, có cả đại liên 12 ly 7.

Trong lúc đó, ở các Chuồng Cọp, Hầm Ðá, do biệt giam nên các tử tù đều không hay biết gì. Vì mỗi người bị còng trong một chuồng riêng biệt. Lúc đó Lê Quang Vịnh đang bị còng chân, nằm một mình trong Hầm Ðá Lao II như một cái xác. Cho đến sáng 1-5-1975, anh vẫn chưa hay biết tí gì về cuộc Ðại thắng mùa xuân năm 1975 lịch sử của đất nước. Anh cũng không hay biết gì về cuộc giải phóng của tù Côn Ðảo ở Lao VII (Chuồng Cọp mới). Sau này, Lê Quang Vịnh đã mô tả lại giây phút Tự Do thiêng liêng đến với mình trong tập sách “Từ trái tim người tù yêu nước”, rất sống động:

“- Sáng 1-5, khi trời vừa sáng, tôi gắng gượng đứng lên hít thở luồng không khí trong lành theo lỗ thông hơi bay vào. Ðôi chân bị còng xiềng lâu ngày làm cho tôi không thể đứng lâu được. Tôi ngồi xệp xuống xoa bóp đôi chân tê dại. Tôi không biết lúc ấy khoảng mấy giờ. Bỗng bên ngoài vẳng vào Hầm Ðá những bước chân dồn dập, tiếng đập phá đùng đùng, tiếng người hét to có vẻ oai vệ. Rồi ngay trước hầm giam tôi vọng vào một giọng nói thân tình: “Vịnh ơi! Có Vịnh ở trong này không?”. Lâu này bị cầm cố trong chốn hầm chuồng, toàn nghe những lời không mấy nhã nhặn như mày tao, đồ… ngạo ngược của bọn cai tù, bọn trật tự. Hôm nay bỗng nghe tiếng gọi thiết tha như tiếng bạn bè. Tôi vội đáp: “- Phải, Vịnh đang bị còng trong đây!”. Rồi tiếng loảng xoảng vọng vào. Cửa hầm giam bật mở. Ánh sáng lóa mắt ùa vô Hầm Ðá. Tôi ráng sức dùng hai tay nâng đôi chân tê bại ra khỏi còng. Tôi ráng vịn bức tường đá lạnh loạng choạng bước ra. Ðôi cánh tay ai đó ôm lấy tôi và dìu tôi đi… Khi mắt quen dần với ánh sáng, tôi nhận ra anh Phạm Tùng, chiến sĩ tình báo, từng bị nhốt với tôi ở Chuồng Cọp mới. Cánh tay trái anh đeo băng đỏ, tay phải cầm khẩu súng, hồ hởi:

– Giải phóng rồi, giải phóng rồi Vịnh ơi!…

Bỗng nhiên tai tôi ù, mắt tôi hoa lên, rồi tôi xỉu đi trong vòng tay đồng chí. Khi tỉnh lại tự nhiên nước mắt tôi ứa ra chan hòa, rồi tôi khóc lên nức nở vì sung sướng…”.

Ngay sau đó, mọi người dìu Lê Quang Vịnh qua nhà Tỉnh trưởng, lúc này đã trở thành Văn phòng Ủy ban giải phóng Côn Ðảo. Lòng Vịnh rạt rào ngất ngây. Hơn mấy tiếng đồng hồ được tự do rồi mà anh cứ thảng thốt như trong mơ. Một giấc mơ quá lớn. Nhìn ánh nắng tháng Năm chói lòa sắc trời Côn Ðảo, Lê Quang Vịnh nghĩ ngay đến màu sắc nguy nga của tự do. Lê Quang Vịnh xúc động quá. Anh vào chỗ Ủy ban giải phóng xin tờ giấy, ngồi xệp xuống hiên nhà viết những nốt nhạc đầu tiên của bản nhạc “Chào Tự do” để ghi dấu giây phút thoát khỏi số phận “tử tù” của mình. Bài hát có những câu điệp khúc vang vọng như tiếng reo ca:

Ta reo hát lên đi, ta reo hát lên đi, ta reo mừng lên đi
Ðời ta đã hết tù ngục chia ly…

Cùng với Lê Quang Vịnh, lực lượng vũ trang Côn Ðảo đã cứu thoát được hơn mười tù nhân bị cùm xiềng và bị bỏ đói trong Hầm Ðá ở Trại II. Ðến trưa 1-5, ta hoàn toàn làm chủ Côn Ðảo. Sau khi chiếm cơ quan Vô tuyến Viễn thông của địch, Ðảo ủy liên tục liên lạc với đất liền, báo tin “Anh em tù chính trị đã thiết lập chính quyền cách mạng ở Côn Ðảo từ sáng 1-5 và xin ý kiến chỉ đạo”. Nhưng không bắt được liên lạc. Ðảo ủy đang tính đến việc cử người vượt biển về đất liền để bắt liên lạc, thì chiều 2-5, bắt được liên lạc với Thành ủy Sài Gòn. Ðất liền cho biết: “Ðã nhận được điện và đã báo cho Trung ương Cục, yêu cầu cho biết ngoài đó cần gì để gửi ra!”. Ðồng chí Hai Tân đã khóc lên vì sung sướng khi nhận điện và đồng chí đã nói: “Côn Ðảo chỉ cần cờ Ðảng, cờ Tổ quốc và ảnh Bác Hồ thôi!”. Ðó là câu nói xúc động nhất trong những ngày giải phóng Côn Ðảo!

Trong lúc đó, tại Vũng Tàu, trung tướng Lê Trọng Tấn đã họp với các tướng lĩnh để bàn một trận hợp đồng quân chủng Hải- Lục- Không quân giải phóng Côn Ðảo. Tối 2-5, máy bay ta đã bay mấy vòng trên bầu trời Côn Ðảo, nhưng Ðảo ủy lại tưởng là máy bay trinh sát của Mỹ trở lại, cho nên chỉ thị cho các đơn vị của đảo chuẩn bị chiến đấu. Còn máy bay trinh sát của ta lại báo cáo là trên đảo đèn điện còn sáng, nên Ban chỉ huy chiến dịch cho là địch vẫn còn, bèn quyết định phương án: Cho máy bay phát loa kêu gọi đầu hàng, nếu địch ngoan cố thì dùng pháo binh, trực thăng, xe tăng trên tàu đổ bộ cường tập để giải thoát tù nhân! Tối 3-5, anh em báo tin bắt được ba người nhái ngoài biển xâm nhập vào đang giữ ở Trụ sở Ủy ban. Tới nơi thì hóa ra là các chiến sĩ trinh sát hải quân ta. Thế là đại diện Ban chỉ huy tàu Hải quân được đưa vào Ðảo. Mọi người ôm nhau mừng rơi nước mắt! Thì ra, Bộ Tổng tham mưu đã điều tiểu đoàn 445 Bà Rịa và một Trung đoàn của Sư đoàn Sao Vàng xuống hai tàu V.609, V.683 ra giải phóng Côn Ðảo. Tàu xuất phát từ chiều 1-5 tại cảng Rạch Dừa chở theo hàng chục tấn lương thực, thực phẩm, rau xanh, thuốc men cùng với cờ Tổ quốc, ảnh Bác Hồ… của Ðảng bộ thành phố Vũng Tàu gửi tặng nhân dân và chiến sĩ Côn Ðảo. Nhưng Côn Ðảo đã tự giải phóng!

Sáng 4-5, quân ta từ tàu chiến đổ lên đảo. Một cuộc mít-tinh mừng Côn Ðảo giải phóng được tổ chức trọng thể. Hàng nghìn cựu tù mang cờ Tổ quốc, ảnh Bác Hồ, cùng với cư dân trên đảo hò reo vang dội.

condao-discovery.com