Trang chủ > Chiến tranh Việt Nam > Nhớ lại trận then chốt chiến dịch. (Phần 1)

Nhớ lại trận then chốt chiến dịch. (Phần 1)

Tháng Năm 3, 2013

Thượng tướng, giáo sư Hoàng Minh Thảo tên thật là Tạ Thái An, sinh năm 1921 tại làng Cao, xã Bảo Khê, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên trong một gia đình thợ may, cha là Tạ Quang Khai, mẹ là bà Nguyễn Thị Tành.

Cũng như bao nhiêu thanh niên Việt Nam giác ngộ thời đó, ông rời quê hương đi tham gia cách mạng từ năm 1937, hoạt đông ở Lạng Sơn. Từ năm 1941 đến năm 1944 ông được Bác Hồ cử đi học quân sự tại trường Tây Cán Bang ở Liễu Châu, Trung Quốc. Trở về nước tham gia Cách mạng Tháng Tám rồi trở thành Tư lệnh Chiến khu 3 (1945-1946), Tư lệnh Chiến khu 4 (1948-1950). Năm 1950, ông làm Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304, năm 1954 ông được bổ nhiêm làm Hiệu trưởng Trường Quân chính.

Ông là người đam mê đánh giặc bằng mưu kế, thế trận điển hình là chiến dịch Đắc Tô 1 (1967) chiến dịch Đắc Xiêng (1970), chiến dịch Đắc Tô – Tân Cảnh (1972), chiến dịch Tây Nguyên mà ông đều làm tư lệnh là đỉnh cao về nghệ thuật đánh giặc bằng mưu kế của ông. Và, ông luôn tạo ra được niềm tin cho những sĩ quan và chiến sĩ của mình.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuốn “Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng” viết: “Trong một buổi làm việc, anh Hoàng Minh Thảo với nhãn quan một nhà nghiên cứu khoa học quân sự đã nêu khi đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột, vì đây là một thị xã lớn nhất, là nơi hiểm yếu và cũng là nơi địch sơ hở nhất và có khả năng phát triển xuống đồng bằng. Khó khăn phải vượt qua để tiến công trên hướng này là thiếu đường hành quân, thiếu nước”.

… Nội dung dưới đây trích giai đoạn đầu của trận then chốt chiến dịch
Tây Nguyên, trận Buôn Ma Thuột, theo cuốn “Chiến đấu ở Tây Nguyên” của cố giáo sư Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên năm 1975

Ông là người đam mê đánh giặc bằng mưu kế, thế trận điển hình là chiến dịch Đắc Tô 1 (1967) chiến dịch Đắc Xiêng (1970), chiến dịch Đắc Tô – Tân Cảnh (1972), chiến dịch Tây Nguyên mà ông đều làm tư lệnh là đỉnh cao về nghệ thuật đánh giặc bằng mưu kế của ông. Và, ông luôn tạo ra được niềm tin cho những sĩ quan và chiến sĩ của mình.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuốn “Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng” viết: “Trong một buổi làm việc, anh Hoàng Minh Thảo với nhãn quan một nhà nghiên cứu khoa học quân sự đã nêu khi đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột, vì đây là một thị xã lớn nhất, là nơi hiểm yếu và cũng là nơi địch sơ hở nhất và có khả năng phát triển xuống đồng bằng. Khó khăn phải vượt qua để tiến công trên hướng này là thiếu đường hành quân, thiếu nước”.

…  Nội dung dưới đây trích giai đoạn đầu của trận then chốt chiến dịch

Tây Nguyên, trận Buôn Ma Thuột, theo cuốn “Chiến đấu ở Tây Nguyên” của cố giáo sư Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên năm 1975

Phần 1-

Chiều 9 tháng 3, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã hạ quyết tâm: “Tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột”. Và các đồng chí lãnh đạo của địa phương cũng nhận được thông báo về quyết tâm này

Khoảng 16 giờ ngày 9 tháng 3, bộ đội tiến công Buôn Ma Thuột bắt đầu rời khu vực tập kết để chuyển lên tiến công, khoảng cách vận động của các đơn vị không đồng đều, đơn vị xa khoảng 25km, còn đơn vị gần nhất cũng phải 10km. Khó khăn nhất là các đơn vị vượt qua sông Sêpêrốc, nhất là bộ đội pháo binh, phòng không cơ giới và bộ đội xe tăng.

Bộ Tư lệnh chiến dịch đã tổ chức chỉ huy và điều hành chặt chẽ suốt quá trình cơ động và triển khai của bộ đội. Cả mười hai Trung đoàn bộ binh và binh chủng cùng lúc vận động và triển khai trên 5 hướng tiến công trong một giai đoạn rất phức tạp của quá trình chuyển sang tiến công. Để đảm bảo bí mật, từ 2 giờ sáng ta đã cho các đội đặc công và pháo phản lực mang vác đánh trước để thu hút sự chú ý của địch vào đó, đánh lừa chúng và che giấu hành động của ta và bảo đảm cho quân của ta triển khai tiến công.

Đêm nay mồng 9 tháng 3, trên bầu trời Buôn Ma Thuột đầy sao. Ngoài vài loạt súng nổ vu vơ, thị xã vẫn dường như yên tĩnh như mọi đêm. Nhưng với chúng tôi, nó là một đêm dài đáng nhớ, vì hàng vạn anh em cán bộ, chiến sĩ chúng tôi hầu như không ngủ để chuẩn bị vào trận đánh quyết định. Trong sở chỉ huy chiến dịch, mọi người nóng lòng chờ đường dây thông tin bắc qua sông Sê-rê-pốc nối với sở chỉ huy phía trước ở bắc thị xã, để nắm lại tình hình cánh quân phía bắc. Hai mũi đặc công luồn vào thị xã và đặc biệt là Trung đoàn 198 phải vòng sang phía đông để đánh sân bay Hoà Bình vẫn chưa liên lạc được. Trận địa pháo DKB ở phía bắc thị xã đã sẵn sàng chưa. Trong khi đó dốc nam ngầm Kơ Mua vẫn còn chờ súng nổ mới mở được. Các bến phà trên sông Sê-rê-pôc đang chờ tiếng súng mới khai thông.

Không khí làm việc trong sở chỉ huy diễn ra hết sức căng thẳng và sôi động. Các máy điện thoại réo liên hồi, mỗi người mỗi máy liên tục nhận tin, rồi truyền lệnh tới các đầu mối. Các mũi tên trên bản đồ tác chiến nhích dần về hướng thị xã Buôn Ma Thuột theo sự chuyển động của các mũi tiến quân. Chiếc kim đồng hồ đã nhích qua con số 12 và tiến dần sang con số 1.

Việc giữ bí mật để tiến công Buôn Ma Thuột một cách nhịp nhàng theo đúng kế hoạch, đúng thời gian, địa điểm, đúng hướng, đúng mũi, đúng mục tiêu của một lực lượng lớn các binh đoàn binh chủng hợp thành gồm bộ binh, đặc công, công binh, thông tin, pháo binh, xe tăng, vận tải và các đơn vị hậu cần, v..v…là một việc rất phức tạp. Muốn vậy, yêu cầu về tổ chức và chỉ huy phải rất chặt chẽ, yêu cầu về tinh thần trách nhiệm và kỷ luật của từng đơn vị và cá nhân phải rất cao. Nếu không bộ đội không thể hiệp đồng ăn khớp, nhịp nhàng được, kẻ địch sẽ phát hiện sớm và xử trí, đối phó, làm cho ta giảm mất chủ động, bất ngờ. .

Quân ta tập kết cách thị xã Buôn Ma Thuột khoảng từ 15-20 km. Xe tăng ở cách xa 25-35 km, có bộ phận ở xa tới 40 km. Ở cự ly này, bắt đầu từ buổi chiều và trong đêm. Riêng các mũi tiến quân của bộ binh, xe tăng, pháo binh, pháo cao xạ và hậu cần phải vượt qua sông Sê-rê-pốc ở phía tây và tây- nam gặp nhiều khó khăn, phức tạp hơn do phải vượt sông và đi xa hơn. Nhưng cuối cùng, do tổ chức hiệp đồng và bảo đảm tốt nên nhìn chung, các binh đội phân đội được vận động và triển khai đúng theo kế hoạch đã đề ra.

Ngày 10 tháng 3 đã bắt đầu.

Đúng 2 giờ (có chênh lệch từ 5-10 phút) khi đặc công và pháo binh của ta bắt đầu nổ súng vào giữa lòng thị xã, thì xe tăng, pháo binh, pháo cao xạ, của ta bắt đầu vượt sông Sê-rê-pốc, cùng các đơn vị, các binh chủng trên các hướng, các mũi theo thứ tự tiến vào vị trí triển khai chiến đấu.

Đúng 2 giờ 03 phút ngày 10 tháng 3 các đội 1, 9, 18 Trung đoàn 198 Đặc công đã nổ súng tiến công sân bay thị xã. 3 giờ 30 đơn vị đã làm chủ phần lớn sân bay. Nhưng ở góc đông bắc sân bay, 1 đại đội biệt kích của địch vẫn còn bám công sự chống trả.

2 giờ 10, Trung đoàn 198 đặc công tiến công và làm chủ sân bay Hoà Bình và đánh vào căn cứ Trung đoàn 53. Quân địch trong căn cứ đã tổ chức phản kích quyết liệt, đánh bật ta ra ngoài.

2 giờ 16, đội 2 Trung đoàn 198 Đặc công đánh chiếm và làm chủ khu kho Mai Hắc Đế.

Tiến công sân bay

Phối hợp với bộ đội đặc công, 2 giờ 10 các trận địa tên lửa H12 và DKB bắt đầu bắn phá hoại căn cứ Sư đoàn bộ 23 và kéo dài từng đợt đến 6 giờ 30 sáng.

Tiếng bộc phá của đặc công và tiếng nổ của đầu đạn tên lửa làm rung chuyển Buôn Ma Thuột. Đèn trong thị xã vụt tắt. Nhiều đám cháy trong thị xã bùng lên.

Sau một lúc bàng hoàng, Vũ Thế Quang đã nhận định tình hình: “Cộng sản chỉ dùng pháo và đặc công đánh thị xã, đến sáng họ sẽ rút”. Và Quang đã ra lệnh cho các đơn vị phải chống cự đến cùng.

Lúc này ở Plâyku, Phạm Văn Phú cũng đã được đánh thức dậy với cái tin sét đánh: “Buôn Ma Thuột đã bị tiến công”.

Về phía ta, lợi dụng tiếng nổ trong thị xã, các đơn vị xe tăng, pháo cơ giới, pháo cao xạ, đã nhanh chóng tiến lên chiếm lĩnh tuyến tiến công.

Theo lệnh của Bộ, tiếng súng tiến công vào Buôn Ma Thuột là hiệu lệnh hiệp đồng về giờ “G” và ngày N của toàn miền Nam. Do vậy, đêm nay cùng với Buôn Ma Thuột, các Mặt trận khác cũng đã tiến công vào nhiều mục tiêu khác của địch khiến cho quân địch cùng bị động lúng túng.

Khi đặc công và pháo binh ta nổ súng đè đầu quân địch xuống và bắt chúng phải đối phó một cách bối rối, thì xe tăng và các binh chủng cơ giới của quân ta bật đèn sáng trong đêm, mở hết tốc lực chạy trên đường quân sự làm gấp và dũng mãnh tiến thẳng, tiến mạnh về các mục tiêu chiến đấu đã được xác định ở vị trí xuất phát tiến công.

Trời dần hửng sáng. Những làn sương mù vẫn còn bao trùm lên thị xã. Các trận địa pháo và xe cơ giới đã sẵn sàng, nhưng các đài quan sát chưa nhận rõ mục tiêu nên phải tạm hoãn giờ pháo bắn chuẩn bị lại.

Đúng 5g30. Cùng lúc với bộ binh và xe tăng chiếm lĩnh các vị trí xuất phát tiến công. Một bất ngờ không phải không đáng kể là lúc đầu trời mù, chúng ta đã không nhìn thấy các mục tiêu để xác định ngay kết quả xạ kích một cách chính xác. Nhưng rồi tầng mù cũng xua nhanh và trời sáng rõ dần.

Trận pháo bắn chuẩn bị thực sự bắt đầu từ 7g00. Tiếng nổ đầu nòng lẫn với tiếng nổ của đạn phá, rồi tất cả đập vào vách núi từ bốn hướng đã tạo nên cả một biển triều không dứt những âm hưởng đặc trưng của chiến tranh. Từ sở chỉ huy chiến dịch cách Buôn Ma Thuột 9km đường chim bay có thể nghe rõ cả tiếng nổ hỗn độn của các kho đạn địch bị cháy và tiếng phản pháo yếu ớt của chúng.

Tôi thấy gì lúc đó? Phải, chưa bao giờ trong hơn ba mươi năm cầm súng – cho đến lúc ấy – tôi đã tham gia một trận đánh mà trong đó lực lượng pháo binh của chúng ta lại hùng hậu và áp đảo như vậy, áp đảo? Đúng thế, tỷ lệ so sánh là gần 5 trên 1 trong trận mở đầu. Nhưng số lượng không nhất thiết là yếu tố quyết định. Ở Điện Biên Phủ, chúng ta chỉ có 24 khẩu pháo mà vẫn giành được ưu thế hoả lực khiến tư lệnh pháo binh Pi-rốt lúc đó phải tìm đường tự vẫn để biểu thị sự bất lực một cách “khảng khái” nhất. Vậy thì vấn đề quyết định bao giờ cũng là ở cách sử dụng.

Trận pháo bắn chuẩn bị kéo dài hơn 2 tiếng đồng hồ đã làm tê liệt quan trọng sức đề kháng của địch. Chưa bao giờ chúng ta có dồi dào đạn pháo đến như vậy, chúng ta có dồi dào đạn pháo không chỉ do sự chi viện của trên mà còn do chúng tôi đã sử dụng tiết kiệm trong những năm 1973, 1974. Hầu hết đạn pháo sử dụng trong thời kỳ đó là cỡ 105mm và 155mm lấy được trong các kho của địch hồi năm 1972 và cả những năm tiếp theo, mà các chiến sĩ pháo binh Tây Nguyên thường gọi đùa là đạn “lương khô”.

Khi các cỡ pháo chuyển sang bắn chi viện, từ các hướng, bộ binh và xe tăng ta dũng mãnh tiến lên xung phong đánh chiếm các mục tiêu đã được hiệp đồng.

Lúc này mà Vũ Thế Quang còn đang ngủ ở nhà riêng. Y thức dậy gọi hỏi khắp nơi rồi tự lái xe đến trung tâm chỉ huy. Tin đầu tiên Võ Ân báo là đơn vị của hắn đang bị đánh mạnh, bộ binh của đối phương đã tràn vào một phần căn cứ B50. Tiếp đó đài quan sát cũng báo về bộ binh, xe tăng đối phương áp sát khu Mai Hắc Đế, sân bay thị xã và nhiều nơi rìa thị xã. Được tin ấy, Quang hốt hoảng, bối rối ra lệnh cho Nguyễn Trọng Luật đưa quân địa phương ra chặn giữ các ngả đường vào thị xã, điều 1 đại đội và 4 xe M113 ra chốt ở Ngã Sáu.

Quang còn nhắc sĩ quan điều không tập trung hướng dẫn cho máy bay oanh tạc ngăn chặn đối phương và yểm trợ cho các mũi phản kích. Quang điện xin Lê Trung Tường chi viện thì Tường cho biết, bộ chỉ huy còn đang tập trung đối phó ở Kon Tum và Plâyku, ý của tư lệnh nhắc Quang ráng giữ thị xã trong vài ngày là tình hình sẽ ổn, Việt Cộng không đủ sức kéo dài cuộc chiến.

Đến 7giờ 15 phút, sương mù tan dần, các mục tiêu đã hiện lên rõ ràng. Hai cụm pháo binh của hai Trung đoàn chiến dịch là Trung đoàn pháo binh 40 và 675 trút bão lửa liên tiếp trong 60 phút xuống ba mục tiêu chính là sở chỉ huy Sư đoàn 23, tiểu khu Đắc Lắk và khu pháo binh, thiết giáp.

Trên không trung, máy bay địch xuất hiện và đánh vào các trận địa pháo của ta. Chúng đã bị hai Trung đoàn cao xạ 234 và 232 nổ súng đánh trả quyết liệt.

Trong khi đó các cụm pháo chiến dịch, các cụm pháo của Sư đoàn tiến

hành hoả lực bắn vào căn cứ sở chỉ huy Sư đoàn 23, tiểu khu, khu pháo binh, thiết giáp. Ngay loạt đạn đầu, ta đã bắn trúng sở chỉ huy tiểu khu. Đại tá Nguyễn Trọng Luật phải tháo chạy về sở chỉ huy của Vũ Thế Quang. Lợi dụng kết quả hoả lực sát thương địch, bộ binh lên chiếm lĩnh tuyến chuyển sang xung phong.

Trên hướng đông bắc thị xã

7giờ 00 ngày 10 tháng 3, lợi dụng đòn đánh của đặc công chiếm sân bay thị xã, Trung đoàn bộ binh 95B được bộ đội đặc công bảo đảm và một đồng chí trong đội công tác dẫn đường thực hành mở cửa đã đưa Tiểu đoàn 5 tiến vào đánh chiếm Ngã Sáu. Ở hướng đông bắc này do Trung đoàn 95B đảm nhiệm, tình hình có khác một chút. Cũng xin nói thêm rằng, đây là đơn vị được tăng cường cuối cùng theo yêu cầu của chúng tôi, một đơn vị có nhiều kinh nghiệm trong trận đánh thị xã Quảng Trị năm 1972, phía địch rất để ý đến Trung đoàn này, đến chiến trường mới được 20 ngày nhưng lại phải phát triển trên hướng chủ yếu của trận mở đầu then chốt. Trung đoàn không gặp nhiều khó khăn khi đột phá, đánh chiếm mục tiêu đầu khá nhanh nhưng phải trụ lại trong nhiều giờ để đánh bại các đợt phản kích địch.

Địch đã chống trả quyết liệt. Máy bay địch ném bom ngăn chặn bộ đội tiến công. Bộ binh địch được xe tăng chi viện đã phản kích đẩy lùi Tiểu đoàn 5 ra khỏi Ngã Sáu. Trung đoàn 95B đưa tiếp Tiểu đoàn 4 có tăng cường 4 xe tăng bước vào chiến đấu. Cuộc tranh chấp ở Ngã Sáu diễn ra gay go, ta bắn cháy xe tăng của địch, bộ binh địch rút chạy. Tiểu đoàn 4 đã chiếm và làm chủ Ngã Sáu.

Tiếp đó, Trung đoàn 95B tiến theo đường 14 liên tục phát triển tiến công đánh chiếm từng góc phố, căn nhà. Đến 15 giờ 30 Trung đoàn 95B ngoan cường tiến đến mục tiêu quan trọng đã được xác định là cơ quan tiểu khu quân sự Đắc Lắc. Và dinh tỉnh trưởng Đắc Lắc. Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt, một xe tăng của ta đã bị địch bắn cháy ngay trước cổng tiểu khu, nhưng ngay sau đó quân ta ào ạt xung phong và đánh chiếm được khu vực này.

Đến 17 giờ 00 theo yêu cầu của đơn vị đặc công. Trung đoàn 95B đã sử dụng 3 xe tăng quay lại tiêu diệt đại đội biệt kích còn lại ở sân bay thị xã.

(Về sau này, vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, Trung đoàn 95B là một mũi thọc sâu đánh địch ở ngã ba Dầu Giây, đánh cao điểm 396 góp phần làm tan rã quân địch ở Xuân Lộc).

Trên hướng tây bắc thị xã, Trung đoàn 148 tiến công từ hướng tây bắc đã phải đột phá qua cả một trung tâm bố phòng của căn cứ Trung đoàn thiết giáp và trận địa pháo binh địch. Bọn chúng tuy bị bất ngờ nhưng đã nhanh chóng củng cố lại trận địa phòng ngự có sẵn. Bộ đội ta gặp nhiều tổn thất nhưng vẫn anh dũng tiến lên.

7 giờ 00, Trung đoàn 148 đã chiếm xong cao điểm Chư Esua, tiêu diệt bộ phận bảo an ở đó. Theo kế hoạch thì cao điểm này được đánh chiếm vào lúc 2 giờ 00, nhưng vì bộ đội đi lạc, nên gần sáng mới đánh chiếm được.

Trung đoàn 148 có nhiệm vụ đánh chiếm khu vực pháo binh, thiết giáp. Nhưng do đưa pháo bắn thẳng vào chậm, nên đến 10 giờ mới bắt đầu đột phá trận địa địch. Quân đích đã kịp tổ chức đối phó, ngăn chặn bộ phận mở cửa. Đội mở cửa bị thương vong, cửa mở không sạch, đội hình bộ đội xung phong bị ùn lại trước của mở. Trước tình hình đó, đồng chí đội trưởng bộc phá đã anh dũng ôm bộc phá vượt qua làn đạn địch xông lên mở thông cửa mở, tạo điều kiện cho bộ binh và xe tăng xung phong đánh chiếm trận địa địch.

Đến 13 giờ 30, Trung đoàn 148 đã chiếm và làm chủ khu pháo binh, khu thiết giáp và hậu cứ Trung đoàn 45 nguỵ. Tiếp đó, Trung đoàn đã phát triển tiến công thao trường Phan Bội Châu, tiêu diệt một bộ phận địch ở chùa Bồ Đề và tiến đến Ngã Sáu bắt liên lạc với Trung đoàn 95B.

Trên hướng tây nam thị xã

Các chiến sĩ tiến giữa một liên hợp kho tàng dài gần 2km được mệnh danh là Mai Hắc Đế mà địch vốn đã triển khai các hình thức bảo vệ chặt chẽ. Bốt canh dày chi chít là những điểm tựa khống chế cả một dải hành lang phát triển của bộ đội ta.

Hồi 7 giờ, địch dùng 2 xe M113 và 2 xe GMC chở đầy lính ra để phản kích hòng chiếm lại khu kho Mai Hắc Đế. Đội 2 đặc công phối hợp với một bộ phận của Trung đoàn 179 đã đánh bại phản kích của địch, giữ vững khu kho.

Cùng lúc, Trung đoàn 174 được phối thuộc đại đội xe tăng tiến công vào thị xã. Tiểu đoàn 2 đã đánh chiếm cao điểm Chư Dluê. Tiểu đoàn 1 đánh vào khu kho xăng của Sư đoàn 23, nhưng địch đã đưa quân ra phản kích. Tiểu đoàn 1 dừng lại. Trung đoàn trưởng đưa tiếp Tiểu đoàn 3 và xe tăng bước vào chiến đấu, chiếm toàn bộ kho xăng và khu vực các đại đội trực thuộc của Sư đoàn 23 ở Nam đường 429.

Trên hướng tây thị xã

Mũi thọc sâu binh chủng hợp thành của Tiểu đoàn 4 theo đường 429 tiến vào sở chỉ huy Sư đoàn 23. Chiếc xe tăng dẫn đầu bị sụp lầy, đội hình bị ùn lại, máy bay địch oanh tạc vào đội hình. Đồng chí tiểu đoàn trưởng đã hy sinh, đồng chí tiểu đoàn phó Bùi Văn Bịn lên thay tiếp tục chỉ huy đơn vị đánh vào khu quân y và khu truyền tin.

Địch tung quân ra phản kích liên tục. Bộ phận thọc sâu đánh trả địch, giữ vững khu đã chiếm. Đồng thời báo cáo nhầm về trên là đơn vị đã chiếm xong sở chỉ huy Sư đoàn 23. Bởi vì qua làn sóng điện, sở chỉ huy chiến dịch biết rõ rằng Vũ Thế Quang, đại tá tư lệnh mặt trận Buôn Ma Thuột còn ở sở chỉ huy và vẫn còn liên lạc thông tin với Phạm Văn Phú.

Để kiểm tra lại, Bộ tham mưu chiến dịch đã phái một số cán bộ đi đến tận nơi để xác minh thì thấy rằng mũi thọc sâu còn ở vòng ngoài, chưa đến trung tâm sở chỉ huy. Sau đó đoàn đã hiệp đồng lại cho trận đánh vào sáng hôm sau.

Mặc dù một phần lực lượng xe tăng tiến trên hướng này phải nằm lại dọc đường, máu đổ nhiều, tiểu đoàn trưởng hy sinh, chính trị viên tiểu đoàn hy sinh, bộ đội thọc sâu vẫn tạo thành một mũi khoan nhanh và hiểm vào gần trung tâm địch.

Trên hướng nam thị xã

Khi đặc công bắt đầu nổ súng trong thị xã, Trung đoàn 149 vẫn cách thị xã khá xa, nên bộ đội phải chạy thật nhanh vào để kịp giờ. Con suối Ea Tam nước lớn và chảy xiết, Trung đoàn phải tổ chức vượt qua. Địa hình phía nam toàn là nương rẫy trống trải, máy bay địch phát hiện đã oanh tạc vào đội hình của Trung đoàn. Một bộ phận đã bám sát đường số 14, địch chống trả quyết liệt, Trung đoàn phải tạm dừng ở đó chưa chiếm được các mục tiêu đã qui định.

Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 174 được đội công tác dẫn đường, hồi 7giờ 30 đã tiến đến quận lỵ Hoà Bình và triển khai tiến công địch. Đến 11 giờ 30 phút, Tiểu đoàn 9 đã chiếm được quận lỵ. Lợi dụng tiếng súng tiến công của bộ đội, anh em tù nhân đã phá cửa ngục chạy thoát ra ngoài 350 người.

Hoả lực pháo binh địch đã bị hạn chế do hình thái xen kẽ địch, ta trong thành phố, song để bù lại, chúng sử dụng tối đa lực lượng không quân có thể huy động được. Máy bay địch dội bom, vãi đạn cố bịt các đầu cầu, nhất là trên các hướng tây bắc, đông-bắc, đông nam nhưng cũng đã vấp phải hoả lực mãnh liệt của bộ đội phòng không theo sát bộ binh.

Trong ngày, địch đã sử dụng 73 lần chiếc máy bay đánh vào đội hình tiến công của ta và ném bom tràn vào đường phố, khu dân cư, gây thương vong cho một số dân.

Mặc dù rất hốt hoảng nhưng địch vẫn ngoan cố cho rằng, tốc độ tiến công của ta cũng như mùa xuân năm 1968. Nên nếu chúng trụ lại được 3-4 ngày thì chúng có thể đẩy lùi ta ra khỏi thị xã và phôi phục lại phòng ngự.

Còn Phạm Văn Phú đến lúc này đã hiểu rõ chỉ có những binh đoàn chủ lực mới có xe tăng, có xe tăng là đánh lớn rồi. Sau khi nhận được nguồn tin xe tăng của ta xuất hiện ở Ngã Sáu thị xã Buôn Ma Thuột, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Phạm Văn Phú: “Phải tử thủ Buôn Ma Thuột bằng mọi giá và đưa ngay Sư đoàn 23 về cứu nguy”.

Phú đã yêu cầu Vũ Thế Quang cố giữ thị xã 2-3 ngày để chúng đưa Sư đoàn 23 về cứu Buôn Ma Thuột. Vũ Thế Quang ra lệnh điều Liên đoàn biệt động quân 21 từ Đạt Lý về tăng cường phòng thủ cho sở chỉ huy. Nhưng Liên đoàn biệt động quân 21 chỉ về đến đông suối Ea’tam, lẩn quẩn ở đó, rồi sau đó lại chuồn thẳng về phía đông thị xã.

Bộ Tư lệnh chiến dịch trên cả hai sở chỉ huy cơ bản và phía trước đã theo dõi chặt chẽ các tình huống diễn biến. Nhưng chính lúc trận đánh đang diễn ra ác liệt trong thị xã thì nhãn quan chiến dịch đã buộc chúng tôi một mặt vẫn phải hết sức chú ý đến nó, mặt khác bỏ qua nó để nhìn đến toàn cục. Trinh sát cho biết chưa thấy có động tĩnh quan trọng của địch trong phạm vi toàn Quân khu 2. Tôi yêu cầu các đồng chí thông qua bộ phận tham mưu của cơ quan đại diện chiến lược để tìm hiểu thêm tình hình địch ở cả Miền Nam và sự phối hợp tác chiến của các chiến trường bạn.

Riêng trong phạm vi Tây Nguyện, vào hồi 15g00, chúng tôi đã được tin địch quyết định điều liên đoàn biệt động quân số 21 ở ngoại vi đông bắc vào phản kích hòng chiếm lại một số mục tiêu quan trọng đã mất trong thị xã. Nhưng lực lượng ô hợp này, rõ ràng sợ bị chung đòn trước cuộc tiến công như vũ bão của ta, vẫn chần chừ chưa dám tiến.

Ở Plâyku, Trung đoàn bộ binh số 45 được lệnh cấm trại để sẵn sàng đổ bộ trực thăng xuống vùng Buôn Ma Thuột. Nhưng tin tức đó không có gì đặc biệt, địch tất nhiên phải phản ứng như thế, nhưng nó cũng đã khiến chúng tôi quan tâm.

Còn ở trong thị xã Buôn Ma Thuột lúc này, trải qua một ngày đầu chiến đấu quyết liệt (10/3), quân ta đã đánh chiếm được khu doanh trại liên hợp bộ binh, pháo binh, xe tăng, bộ chỉ huy tiểu khu, một phần quan trọng của Sư đoàn bộ 23, và đã tiến sát vào sở chỉ huy hành quân của Sư đoàn 23.

Vào khoảng 16 giờ chiều, chúng tôi liên tiếp nhận được báo cáo là cán bộ thọc sâu tiến công từ hướng tây và sau đó là một mũi của Trung đoàn 174 do thiếu tá Trung đoàn phó Nguyễn Văn Minh dẫn đầu tiến công từ hướng tây nam đã phát triển đến mục tiêu cuối cùng, sở chỉ huy Sư đoàn 23 địch. Đồng chí Đoàn Sinh Hưởng đại đội trưởng xe tăng của tiểu đoàn chọc sâu cũng báo cáo nhầm như thế.

Trong khi đó, các thông tin về tình hình địch do phòng 2 quân báo cung cấp thì lại cho thấy chúng ta chưa đến được mục tiêu chủ yếu này. Lịch sử có lặp lại không đây? Tôi nhớ ngay tình huống tương tự xảy ra năm 1972, khi chúng ta đánh vào thị xã Kon Tum: Bộ đội báo cáo ta đã ở trong sở chỉ huy Sư đoàn 22 địch nhưng quân báo – lại vẫn là quân báo – thì lại khẳng định rằng đó không phải là sào huyệt của chúng, và quân báo đúng. Điều này không có gì lạ: chúng ta chưa quen đánh trong thành phố, việc nhận dạng các vị trí của địch thường có tính ước lệ và nếu có dựa vào bản đồ chiến thuật, ảnh chụp và các vật chuẩn thì những thứ ấy, do không được cập nhật, đã mất tính thời gian. Có sự nhầm lẫn là điều khó tránh khỏi, nhưng điều quan trọng là không để tình trạng mơ hồ kéo dài, tuyệt đối phải xác minh lập tức.

Chỉ huy sở phía trước, do các Đại tá Nguyễn Năng và Phí Triệu Hàm chỉ huy, đã cử ngay Thượng tá Phó tham mưu trưởng Lê Minh và một tổ các sĩ quan tham mưu gồm nhiều thành phần dùng xe “gíp” tiến theo hướng của bộ đội thọc sâu .

. .

Đúng như dự đoán, các chiến sĩ của chúng ta nhầm lẫn. Do hình thái cấu trúc tương tự bên ngoài, bộ đội đã tưởng vị trí của khu thông tin và tiểu đoàn quân y địch mà họ vừa tiến đến là sở chỉ huy Sư đoàn 23. Nhưng như vậy là cũng đã tiến sát mục tiêu cuối cùng.

Và trên tất cả các hướng, chúng ta đã làm chủ đại bộ phận thị xã. Các dấu hiệu chứng tỏ kẻ địch tuyệt vọng, mặc dù chúng không ngừng phản kích.

Chúng tôi lệnh cho Thượng tá Lê Minh bắt liên lạc trực tiếp với năm mũi tiến quân, cho bộ đội dừng lại ban đêm để củng cố, thống nhất các động tác hiệp đồng, chuẩn bị cho đòn tổng công kích ngày hôm sau.

Ngày tiếp theo của trận đánh

Ngày 11 tháng 3

Từ 6 giờ đến 8 giờ, pháo binh ta bắn dồn dập vào sở chỉ huy Sư đoàn 23. Tiếp đó, bộ binh và xe tăng ta hình thành bốn mũi tiến công vào sở chỉ huy sư đoàn 23.

Hướng đông bắc, từ tiểu khu bảo an, 1 đại đội của Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 95B và 2 xe tăng theo đường 429 tiến thẳng vào cổng chính, bắn cháy đánh đuổi thiết giáp địch và tiến thẳng vào trung tâm sở chỉ huy.

Các chiến sĩ xe tăng Đoàn Sinh Hưởng, Bùi Mạnh Hồng, Phạm Hồng Vách và đồng chí Bưởi anh dũng cho xe tăng lao thẳng vào thiết giáp địch, mở đường cho bộ binh.

Hướng tây, từ khu thông tin 1 đại đội của mũi thọc sâu và 2 xe tăng vượt qua khu “quân cụ biệt lập” phá rào tiến thẳng vào sở chỉ huy sư đoàn 23.

Hướng nam, Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 149 từ khu hành chính, vượt qua nhà thờ, qua khu đại đội tổng hành dinh cũng chọc thẳng vào sở chỉ huy địch.

Cùng lúc đó, từ hướng bắc Trung đoàn 148 cũng phái một đại đội và 2 xe tăng tiến vào sở chỉ huy Sư đoàn 23, nhưng khi đơn vị đến nơi thì bộ đội bạn đã chiếm xong

.

Trước sức áp đảo của bộ đội tiến công, máy bay địch hốt hoảng ném bom tràn xuống khu vực sở chỉ huy. Bom rơi xuống gần khu hầm của Vũ Thế Quang. Trong khói đạn hỗn loạn, Vũ Thế Quang và Nguyễn Trọng Luật cùng bọn sĩ quan tham mưu bỏ sở chỉ huy, tháo chạy. Lúc đó là 8 giờ 15 phút. Quang và Luật chạy trốn ra rừng cà phê ngoài thị xã. Nhưng Luật đã bị các chiến sĩ Tiểu đội 3, đại đội 3, tiểu đoàn 4, Trung đoàn 24 bắt sống, còn tên Quang chạy xuống đến phía nam thị xã cũng bị các chiến sĩ Trung đoàn 174 tóm cổ tại buôn A Lê.

Sau trận pháo như thác giội, bộ binh ào lên từ các hướng. Bộ đội ta tràn vào sở chỉ huy, tiêu diệt bọn tàn quân. Đến 9g05, chiếc xe tăng đầu tiên phá vỡ hầm chỉ huy địch.. Hầu như cùng một lúc các mũi tiến quân đã hội quân ở mục tiêu cuối cùng.

Đến 1 giờ trưa ngày 11 tháng 3, lá cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã được kéo lên trên cột cờ của sư bộ Sư đoàn 23. Và trận công kích cuối cùng vào căn cứ Sư đoàn 23 sáng ngày 11 tháng 3 đã diễn ra đúng như dự kiến, tuyệt đẹp nữa là khác, sở chỉ huy của chúng tôi lúc ấy đã giống như một ngày hội.

Ngày 11 tháng 3, Quân uỷ Trung ương điện chỉ thị: “ở Buôn Ma Thuột cần nhanh chóng tiêu diệt địch còn lại, vừa phát triển ra xung quanh, vừa sẵn sàng đánh viện của địch, nhanh chóng phát triển về hướng Cheo Reo, hình thành thế bao vây Plâyku để tiến tới tiêu diệt Plâyku, cô lập Kon Tum, mở rộng phạm vi kiểm soát (đường – Sao Vang) số 19, thực hiện chia cắt chiến lược tiến tới tiêu diệt An Khê”.

Theo tinh thần Chỉ thị đó, Bộ Tư lệnh đã nhận định tình hình “Ta đã chiếm hết các mục tiêu quan trọng nhất, làm chủ được thị xã Buôn Ma Thuột, khống chế được sân bay Hoà Bình, nhưng một số căn cứ quan trọng ven thị xã địch vẫn còn chiếm giữ, chúng có thể đổ quân xuống các căn cứ đó để phản kích đánh chiếm lại thị xã.

Từ tình hình trên, Bộ Tư lệnh chiến dịch có quyết tâm: “Nhanh chóng phát triển thắng lợi tiêu diệt địch ở ngoại vi, phụ cận, trọng điểm là căn cứ các Trung đoàn 45 và 53 quét sạch tàn binh địch, củng cố vững chắc khu đã chiếm, sẵn sàng đánh lại phản kích địch”

.

Bộ Tư lệnh đã ra lệnh cho Sư đoàn 10 (thiếu) nhanh chóng cơ động về đông bắc thị xã, sẵn sàng làm dự bị và chuẩn bị đánh địch phản kích lớn.

Thực hiện quyết tâm trên, ngày 12 và 13 tháng 3 ta tiếp tục tiến công và truy quét tàn quân trong thị xã và các vị trí ở ven thị.

Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 95B đánh chiếm khu nhà lao, bắt hơn 100 địch,

giải phóng số tù nhân còn lại.

Từ 6 giờ 25 đến 8 giờ 25 phút ngày 12 tháng 3, Trung đoàn 24 và 1

đại đội xe tăng đánh chiếm hậu cứ Trung đoàn 45 và khu trung tâm

huấn luyện Sư đoàn 23, diệt và bắt 350 tên địch, thu 400 súng.

Chiều 12 tháng 3, Trung đoàn 174 tiến công cụm quân địch ở cầu Sê-rê-pốc bắt 300 tên địch.

Ở phía bắc, Trung đoàn 9 Sư đoàn 320 đã đánh chiếm quận lỵ Buôn Hồ, điểm cao Chư Bao, ấp Đạt Lý. Cùng với tiến công quân sự, các đội công tác và cơ sở tại chỗ tiến hành phát động quần chúng nổi dậy giải tán bộ máy kìm kẹp của địch.
Nhiều buôn làng đồng bào kéo nhau về lại làng cũ. Các cuộc mít tinh quần chúng mừng chiến thắng và ra mắt chính quyền cách mạng ở cơ sở, bước đầu ổn định đời sống cho dân, giữ gìn trật tự an ninh, kêu gọi bọn địch tan rã ra đầu thú.

Ngày 12 tháng 3 Quân uỷ điện cho anh Văn Tiến Dũng, đồng gửi cho tôi và Thường vụ Đảng uỷ Chiến dịch Tây Nguyên có đoạn: ” Địch đang có ý định dựa vào các lực lượng chưa bị tiêu diệt của chúng và các điểm phụ cận, tăng thêm lực lượng phối hợp với không quân tiến hành phản kích hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột…Vì vậy, việc cấp thiết nhất là nhanh chóng tập trung lực lượng hơn nữa, nhanh chóng tiêu diệt các đơn vị và các căn cứ của địch ở chung quanh Buôn Ma Thuột, tiêu diệt viện binh của chúng. Tiêu diệt được bộ phận quan trọng sinh lực của đích chung quanh Buôn Ma Thuột sẽ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chiến dịch, Đồng thời chỉ đạo mọi công tác hoạt động trên các hướng phát triển đã dự định: Cheo Reo, Plâyku và đường 19, chú ý khai thác tù binh phục vụ cho tác chiến và binh vận. Chúc thắng to. Ký tên: Chiến”.

Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương cũng gửi điện nhiệt liệt khen ngợi quân và dân Tây Nguyên đã giành được thắng lợi to lớn ngay trong những ngày đầu của chiến dịch. Bộ Chính trị chỉ thị: “Cần nhanh chóng nắm lấy thời cơ thuận lợi giành thắng lợi to lớn hơn nữa”.

TDB-thực hiện
qdnd.vn

(Còn tiếp)

—————————-

Chuyên mục:Chiến tranh Việt Nam