Trang chủ > 55 ngày - Sài Gòn sụp đổ > 55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ – Chương: 12

55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ – Chương: 12

Tháng Tư 21, 2014

Trước lúc đầu hàng

Loại A.37 được mang đến Việt Nam là do không quân Mỹ trao cho phi công Sài Gòn. Nó là loại oanh tạc cơ tấn công nhỏ nhưng tốt nhất trong không quân Sài Gòn. Khoảng 26 chiếc đã bị bỏ lại Đà Nẵng và tất cả hầu như có thể bay được sau khi tu bổ chút ít. Một điểm thuận lợi chính là kích thuớc của nó, chỉ cao ngang tầm vai và có thể được sử dụng dễ dàng bởi cỡ người thấp bé của dân phương Đông. Nó bay dưới mức siêu âm, nguyên thuỷ là loại máy bay huấn luyện và vẫn còn giữ hai chỗ ngồi kề nhau như khi ông thầy và học sinh ngồi bay. Phi công Hoa Kỳ nhận thấy nó là loại máy bay lý tưởng cho cuộc chiến tranh Việt Nam, đặc biệt vì nó bay chậm, do đó làm cho phi công có thể thực sự nhìn thấy mục tiêu đang tìm mà đánh.

Nó chẳng phải loại máy bay “con ma”, thậm chí nó không thể bay từ Sài Gòn đi Hà Nội để oanh tạc được. Tầm hoạt động của nó giới hạn nên đó là lý do khiến người Mỹ có thể giao nó cho quân đội Sài Gòn. Nó giản đơn so với chiếc phản lực nhưng như thế không có nghĩa là giống như xe hơi kiểu T cổ lỗ của Hoa Kỳ. Nó bay thường xuyên và tốt, chính xác, tuy chỉ sử dụng được vào ban ngày, không bay được trong mưa giông lớn. Nó không có vũ khí tự vệ để chống lại phi cơ khác, không có tên lửa đối không. Đáng buồn là chính những máy bay ấy lại quật bom vào Tân Sơn Nhất, bịt nốt cái phi cảng cuối cùng mà người Mỹ có thể hy vọng di tản qua con đường đó.


Phi công Nguyễn Thành Trung trên máy bay A-37 (ảnh chụp trước khi phi đội Quyết Thắng ném bom Tân Sơn Nhất)

Còn một loại bom được để ở Thái Lan và chỉ có một ít nằm ở đấy vì sợ hai tiếng chính trị. Số ít người Mỹ biết được sự có mặt của chúng ở Thái Lan, đã gọi chúng là vũ khí tối hậu mà các sĩ quan không quân Hoa Kỳ mê mệt. Chúng chỉ là một trong số hàng trăm vũ khí không nguyên tử bí mật và có tính chất huỷ diệt vốn xuất phát từ quỹ nhiều tỷ đôla tài trợ cho quân đội Hoa Kỳ giữa thập kỷ 60 để tiến hành chiến tranh Việt Nam. Mục đích các chương trình này là khám phá ra cách giết nhiều địch trong khi lực lượng Mỹ tổn thất ít hơn. Máy bay không người lái, lựu đạn cải tiến, bom CBU.55 chỉ là số ít trong những kết quả đạt được.

Bom CBU (viết tắt của các chữ Cluster Bom Unit) với số hiệu 55 là một trong những vũ khí đáng sợ, có ba khoang chứa đầy nhiên liệu propan, một hỗn hợp bí mật các loại chất khí khác và chất nổ. CBU.55 chưa hề được sử dụng trong chiến tranh. Một số lượng nhỏ loại bom này được để ở Thái Lan đề phòng bất trắc. Tuy nhiên cho đến tháng 4-1975, ít người Mỹ dám đề nghị sử dụng nó.

Đầu tháng 4, một quả bom CBU.55 được chở bằng máy bay từ căn cứ không quân Utapao đến Sài Gòn rồi chuyển bằng xe về căn cứ không quân Biên Hoà. Thứ vũ khí này vẫn nằm dưới quyền kiểm soát kỹ thuật của Mỹ, mặc dù nó nằm trong tay không quân Sài Gòn. Thiệu từ chức vẫn không có cách cứu vãn đà sụp đổ của quân đội Sài Gòn, tướng Homer Smith, sĩ quan cao cấp nhất của Mỹ ở Nam Việt Nam đã cho phép Sài Gòn sử dụng loại vũ khí ấy. Các sĩ quan Sài Gòn đã chọn Xuân Lộc làm mục tiêu khi lực lượng Sài Gòn đang rút lui và cộng sản đang tiến về Sài Gòn. Một máy bay vận tải C.130 được lệnh chuẩn bị sẵn sàng vào sáng ngày 21-4. Quả bom CBU.55 được chất lên. Con ngựa bốn động cơ của hãng Lockheed cất mình nhẹ nhàng khỏi phi đạo Biên Hoà và bay thẳng đến Xuân Lộc.

Ở độ cao 6 nghìn mét, cánh cửa vỏ sò ở đuôi máy bay mở ra. Cái dù thăng bằng đeo quả bom rơi vào không trung. Với một tiếng rền nghe có vẻ dồn nén kỳ lạ, và một quả cầu lửa khổng lồ bùng lên. Phi hành đoàn kinh sợ nhìn xuống.

Trong vòng hai ngày, đài Hà Nội đã công kích việc sử dụng loại vũ khí mới ấy. Họ miêu tả đúng nó, có lẽ là do báo cáo của các điệp viên ở Tân Sơn Nhất và Biên Hoà. Cộng sản coi đó là nỗ lực sau cùng trong các nỗ lực tuyệt vọng của quân đội Sài Gòn. Mà cũng đúng thế thật. Bom CBU.55 không được chở đến nữa. Loại có sẵn ở đó sau này được đem ra phòng trưng bày “tội ác chiến tranh” ở thành phố Hồ Chí Minh.

Cũng còn cả những vũ khí khác được sử dụng trong những ngày chiến đấu luýnh quýnh sau cùng. C.130 ném dăm ba quả bom loại 15 nghìn bảng Anh (khoảng 7 tấn rưỡi) xuống các vị trí đối phương. Các trực thăng lớn ném “thùng phuy xăng”-một thứ bom napan chế tạo nội địa gồm có xăng và mảnh vụn xà phòng biệt hiệu Tuyết Ngà (Ivory Snow). Cũng vì B.52 không thể giúp sức Sài Gòn được nữa nên đã có nỗ lực tìm cách biến loại C.130 thành máy bay ném bom. Những chuỗi bom 500 bảng Anh còn nguyên trong thùng được đẩy ra sau đuôi máy bay vận tải cho rơi xuống. Chúng có chung tác động với cuộc chiến: chẳng làm nổi trò trống gì. Cũng như B.52, hầu hết loại bom chùm này cũng chỉ gây tổn thất cho môi trường và đám khỉ.

Các vũ khí bí mật như vậy đã chẳng giúp Sài Gòn thắng nổi cuộc chiến thì chính trị cũng chẳng làm được gì hơn. Chẳng có sự ủng hộ nào dành cho Hương, dù vài người cũng tin rằng lão già ấy có thể quy tụ được sự ủng hộ nào đó. Martin-đạí sứ Mỹ, J.M.Merillion-đại sứ Pháp, Trần Văn Lắm, Dương Văn Minh đều có những ý kiến riêng biệt được quyện vào nhau về cách thức chấm dứt cuộc chiến. Ai cũng muốn hành động tức khắc nhưng giống như diễn viên trong loại phim hài hước rẻ tiền, họ đụng nhau côm cốp. Không ai biết tất cả những chuyện mà ba người kia đang làm và không ai ủng hộ hoàn toàn việc làm của một trong ba người kia. Có thể so sánh họ với chuyện “Ba thằng hề cộng một”.

Cộng sản lúc đó chưa kêu gọi một cuộc đầu hàng. Đòi hỏi tuyệt đối không được thương lượng là “tất cả lực lượng quân đội Hoa Kỳ phải rút khỏi Nam Việt Nam”. Hà Nội ép Sài Gòn đang thua phải nhượng bộ. Cộng sản đã đi theo con đường ấy suốt 43 năm lịch sử. Không bao giờ nhường một tấc đất trong khi vẫn thúc đẩy để mang về từng thắng lợi ngoại giao hoặc quân sự. Họ chưa hề rút lui trong các đòi hỏi công khai. Giống như đấu thủ quần vợt đứng sát lưới, họ không để đấu thủ ngoại giao có khoảng trống. Trái bóng chỉ ở sân họ trong tích tắc và không để chạm đất đã nẩy lên. Trong năm 1975 này, B.52 không còn lảng vảng gần Hà Nội nữa.

Cuộc không vận của Mỹ di tản tăng lên hàng ngày. Ngày 24-4, có 24 chuyến bay, phần lớn là loại C.141 với 250 người một chuyến. Ngày 25 có 26 chuyến và ngày 26 có 31 chuyến. Tàu bè cũng bị gom vào dịch vụ di tản. Martin cho phép trả tiền hối lộ cho cảnh sát Sài Gòn tại Tân Sơn Nhất để đem người Việt Nam đi qua trạm kiểm soát vào sân bay tham gia di tản. Cứ 20 đôla một xe qua. Trong 10 ngày cuối cùng, tốn khoảng 50 nghìn đôla. Có lính gác Việt Nam đòi cái giá rất cao và cũng được người Mỹ thoả mãn. Có lẽ 250 nghìn đôla, thậm chí 500 nghìn đôla là món tiền hối lộ đã lọt vào túi họ. Suy cho kỹ thì đây là cách nhục mạ cuối cùng của người Nam Việt Nam đối với người Mỹ. Đến Việt Nam với một mong muốn giúp đỡ-tuy có thể còn phải bàn cãi điều này là phạm sai lầm-người Mỹ giờ đây phải bỏ tiền ra mua lấy sự thoát thân của họ.

Cuộc chiến chưa ngừng lại dù rằng nó giảm xuống mức gần như đứng yên. Nơi thấy rõ điều này là Biên Hoà, căn cứ lớn nhất còn nằm trong tay quân đội Sài Gòn. Chiến trận ở đây là tiếng còi và tiếng rít xé gió, thứ âm thanh đáng sợ nhất thế giới. Đạn pháo nổ và hoả tiễn ập xuống Biên Hoà với con số ngày càng tăng.

Buổi sáng Xuân Lộc sụp đổ cũng là ngày Thiệu từ chức thì đạn pháo của cộng sản đã làm phi đạo bị tê liệt mất nửa ngày. Nửa lực lượng không quân Sài Gòn nằm bẹp. Hai ngày sau, đạn pháo và hoả tiễn vẫn còn rơi xuống làm cho không ai ngủ ngon giấc qua đêm. Chúng rơi trúng kho bom, rồi trúng cả máy bay. Trực thăng giờ đây trở thành vô dụng và phi công Nam Việt Nam không chịu bay nữa. Ở Biên Hoà hãy còn một ít cố vấn Mỹ đang sửa chữa những chiếc trực thăng để chúng có thể tham chiến. Nhưng khi sửa xong máy bay thì phi công Sài Gòn lại không chịu bay. Lưới lửa phòng không Bắc Việt Nam đã ở sát Biên Hoà khiến các phi công Sài Gòn xem trực thăng chỉ là phương tiện để dự trữ thôi.


Pháo kích Tân Sơn Nhất.

Cố vấn Mỹ nổi cáu nhưng người Việt Nam khư khư giữ quyết định của họ. Hầu hết người Mỹ vào Sài Gòn để về Hoa Kỳ. Ngày 23-4, trong tình hình pháo kích vào Biên Hoà tăng thêm và quân cộng sản bao vây căn cứ thì không quân Sài Gòn lại rút đi. Máy bay F.5 chuyển về Sài Gòn, loại A.37 về Cần Thơ. Các phi công được đi phép một tuần rồi sẽ về trình diện ở Sài Gòn hoặc Cần Thơ. Xe vận tải được gom lại để chuyển bom từ Biên Hoà về các căn cứ mới. Thế là hơn một nửa lực lượng không quân Sài Gòn đã bị xếp cánh. Cùng ngày ấy, “lãnh sự quán Hoa Kỳ” ở Biên Hoà vẫn mở cửa. “Vâng, mở cửa vô hạn định!”. Ngày hôm sau, cánh cửa đã khoá tịt lại. Người Mỹ đã trốn trong đêm về Sài Gòn bằng một chiếc trực thăng. Người ta hy vọng lá cờ nhiều sao mà họ bỏ lại tiếp tục bay trên lãnh sự quán sẽ ngăn ngừa sự hoảng loạn ở Biên Hoà. Lãnh sự quán ở Cần Thơ cũng thế. Họ cũng chuồn về Sài Gòn ban đêm bằng trực thăng. Người Mỹ từ lâu vẫn nói rằng, châu thổ sông Cửu Long là chìa khoá của Nam Việt Nam vì rất đông dân, giờ đây lại bỏ ra đi trước khi cuộc chiến đấu bắt đầu.

Ngày 25-4, Bộ tư lệnh Bắc Việt Nam hỏi các phái đoàn Bắc Việt Nam và Việt Cộng tại sân bay Tân Sơn Nhất rằng, họ cần bao nhiêu thời gian để chuẩn bị sẵn sàng đối phó với “cuộc giải phóng” bằng bạo lực. Vài phút sau, một điện mật trả lời rằng cấp trên không phải lo lắng cho những người ở đây. Mọi người ở trại David sẵn sàng hiến dâng mạng sống cho thắng lợi sau cùng.

Cách Sài Gòn 6 dặm về phía Bắc, lùi vào quốc lộ đi Biên Hoà 3 dặm, bộ đội Bắc Việt Nam đã chuyển pháo 105 ly đến cách đồng trống nằm ngay sau các rặng cây và nhà cửa. Họ ít tiếp xúc với dân chúng. Những ai bước ra khỏi nhà để nói chuyện với “quân giải phóng” đều được báo là nên tránh xa khu vực ấy. Sắp có một trận đánh lớn vào Sài Gòn và những khẩu đại bác này sẽ phá thành phố ra tro bụi nếu cần. Nhưng họ không biết khi nào thì trận đánh sẽ xảy ra.


Pháo binh triển khai trận địa bắn vào SG (Đoàn PB Tất Thắng).

Các sĩ quan cấp thấp thuộc 4 sư đoàn Bắc Việt Nam đã chuyển đến những vùng sát Bắc Sài Gòn. Giữa ban ngày, họ đã tiếp xúc với Việt Cộng nằm vùng. Hầu hết những người này thuộc trung đoàn Đồng Nai cũ. Bộ đội Bắc Việt Nam nói với họ rằng cuộc tấn công Sài Gòn sắp xảy ra. Việt Cộng sẽ là người dẫn đường. Nhiều bản đồ được đưa ra và những người cộng sản trong vùng chỉ cho các sĩ quan biết những con đường, nơi bố trí phòng thủ và các mục tiêu chủ chốt. Các lực lượng cộng sản vẫn chuẩn bị một cuộc tấn công toàn lực vào Sài Gòn, nhưng họ vẫn hy vọng sẽ không cần thiết phải làm như vậy. Xét cho cùng, một cuộc đầu hàng vẫn tốt hơn nhiều so với cuộc tấn công tàn phá thành phố. Các nhà quyết định chính sách của họ bèn chọn ngày 28-4 là kỳ hạn cuối cùng.

Điều buồn cười lúc này là sự giả vờ can đảm của Nguyễn Cao Kỳ. Kỳ đanh tính chuyện bên lề với Bộ quốc phòng Mỹ nhằm đem các máy bay đi không để lọt vào tay cộng sản và cũng đã gửi vợ đi theo các cuộc di tản khỏi Nam Việt Nam. Thế mà Kỳ vẫn được một số người tin là can đảm.

Việc Kỳ muốn nắm quyền hành ở Nam Việt Nam gần như là chuyện công khai. Trong khi kêu gọi Thiệu từ chức, suốt mấy tuần qua Kỳ tự xem mình như là tổng thống, là kẻ đang cầm đầu cái chế độ ngắc ngoải này. Thế là khi đứng trước đám đông độ 6 nghìn người thiên chúa giáo hữu khuynh vào xế trưa thứ sáu ngày 25-4 cái ngổ ngáo của viên tướng không quân này còn nguyên vẹn. Kỳ nói chuyện phòng thủ Sài Gòn, rằng những kẻ chạy trốn theo Mỹ là hèn nhát. Đàn bà và trẻ con sẽ được gửi đi đảo Phú Quốc. Dân Sài Gòn sẽ đứng lên chống cộng, Kỳ ở tuyến đầu. Trong lúc bốc lên, viên tướng râu dê này nói, nếu cần thành phố sẽ trở thành một Stalingrad, nơi đã cầm cự 900 ngày trong vòng vây hãm. Ít ra nhân dân thế giới cũng nhớ đến sự anh hùng của những người bảo vệ Stalingrad chứ sẽ chẳng ai thèm nhớ đến Sài Gòn nếu nó chịu đầu hàng ngay. Kỳ khuyên mọi người đừng di tản hãy đứng lên chiến đấu. Việc phân phối vũ khí sẽ làm ngay, mọi người nên ở lại Sài Gòn. Đám dân di cư từ Bắc Việt Nam vào đây từ năm 1954 bị kích động đã hoan hô Kỳ rầm rĩ.

Nhưng sĩ khí chống cộng chỉ thế thôi. Sau đó Kỳ bỏ vào sân bay Tân Sơn Nhất để sắp xếp cho các máy bay di tản sang Thái Lan và đồng thời cũng bí mật ra lệnh cho một trực thăng đến đón mình. Chẳng dại gì mà liều và Kỳ không thể nào dám liều ở lại với cộng sản. Tấn tuồng chống cự của viên tướng can đảm nhất của quân đội Sài Gòn công diễn âm thầm độ nửa giờ là đóng màn. Dù sao các nhà báo nước ngoài lúc ấy cũng ghi vào sổ tay chi tiết đó.

Còn Thiệu và mụ vợ thì đang bận gói ghém vàng, kim cương, ngọc thạch và đồ cổ. Công việc đó là 16 vali quần áo, tư trang và theo tin ở dinh thì còn 100 nghìn đôla nữa. Martin giúp bọn này ra đi và có ý định chỉ cho mang đồ vật cá nhân nhẹ. Thế là tay cựu tổng thống và vợ phải tính đến cách khác. Mai Anh đã xoay sở lấy được 16 tấn vàng ra khỏi ngân hàng bằng cách ép, dọa bọn thuộc cấp. Vàng nằm trong dinh lúc Thiệu từ chức “vì lý do an ninh”. Mụ ta cho chuyển phần lớn số vàng thỏi ấy lên một máy bay thuê của hãng hàng không Thuỵ Sĩ, nhưng các phi công đòi biết trong thùng hàng có gì, theo nguyên tắc phòng xa. Họ khám phá ra đó là vàng nên phải hỏi lãnh sự quán Thuỵ Sĩ và rồi từ chối không chở nữa. Lý Long Thân nhảy vào cứu nguy. Tay này có phương tiện riêng là tàu “Trương tinh”, tuy không phải là tàu đi xa nhưng khẩn cấp quá rồi. Thân ra lệnh chờ vàng đi Pháp, sau này Thiệu có nhận lại ở đó. Ngọc thạch và kim cương hầu hết được đóng thùng kỹ lưỡng và vợ Thiệu giám sát từng bước gói ghém hàng.

Đến lượt những thứ đồ cổ. Giá trị của chúng không ai biết rõ, nhưng là đồ của viện bảo tàng Sài Gòn thì chắc là phải đáng giá lắm. Buồn thay, nhiều thứ lại vô giá trị. Các nhân viên Viện bảo tàng cũng ăn hối lộ như điên nên đã thay thế phần lớn đồ cổ bằng những thứ giả giống hệt nó. Họ đem bán chúng (đồ thật) cho các chủ hiệu và người sưu tầm. Vợ Thiệu chẳng biết gì cứ yêu cầu viên phụ tá của Thiệu là Đặng Văn Quang thu xếp gửi đi đâu đấy. Quang chọn Canada là nơi lưu vong và đã chuyển những đồ cổ cả thật lẫn giả lên một chiếc tàu đi Montreal thông qua Hoa Kỳ. Vợ Thiệu vẫn đinh ninh như thế.

Một cách tuyệt đối bí mật, chiếc máy bay C.118 của không quân Mỹ đến Tân Sơn Nhất lúc 3 giờ sáng ngày 26-4 để chở Thiệu đi di tản. Thiệu được báo trước một giờ để sửa soạn hành lý lần cuối cùng, kể cả chuyện lén lút chở đi số tiền 100 nghìn đôla mà Kỳ nói là đầy ắp 4 vali thuộc quỹ dự phòng trong dinh. Cựu thủ tướng và là tướng 4 sao Khiêm được báo trước 20 phút. Xe Mỹ chở họ đến Tân Sơn Nhất. Máy bay cất cánh đi Đài Loan. Chẳng có họp báo, chẳng có tường thuật việc Thiệu đến Đài Bắc. Cuộc ra đi của Thiệu âm thầm và hoàn toàn nhục nhã.

Quốc hội Sài Gòn họp sau lúc Thiệu ra đi. Một số ý kiến đồng ý với Martin nên cử Hương hay Trần Văn Lắm làm tổng thống. Lắm vẫn mơ ước chức vụ ấy và đến lúc này vẫn còn thèm. Khi cộng sản đã vây chặt Sài Gòn và sắp san nó thành bình địa thì Martin lại có ý kiến khác nữa là Hương hoặc Lắm, ai làm tổng thống cũng được, còn thủ tướng nên để cho Minh lớn.

Trước lúc bình minh ngày thứ bảy, nhiều xe vận tải Bắc Việt Nam đỗ lại bên sông Sài Gòn cách thủ đô 6 dặm về phía Bắc. Chúng chở hoả tiễn và đạn pháo 105. Những đại bác và hoả tiễn này đã nằm vào các vị trí bắn sau những rặng cây. Chiến tranh bắt đầu trở lại sáng chủ nhật và báo hiệu bằng tin dữ: 4 hoả tiễn rơi xuống Sài Gòn. Đây là dấu hiệu cho thấy phút bắt đầu của giai đoạn cuối và ai nấy đều biết. Ba năm rưỡi, chưa có đạn pháo hay hoả tiễn rơi xuống Sài Gòn. Bây giờ chiến tranh đang rẽ sang một bước ngoặt mới, cho thấy Hà Nội sẵn sàng tấn công Sài Gòn. Thời gian cấp bách một cách tuyệt vọng. Sự xào xáo chính trị nội bộ bây giờ là một thứ xa hoa không còn chỗ đứng.

Phòng tuyến sau cùng của Sài Gòn bắt đầu rung rinh vào sáng chủ nhật. Tại Long Thành, một trong những trận đánh bằng xe tăng dữ dội nhất cuộc chiến đã tràn ngập lên căn cứ thiết giáp của quân đội Sài Gòn. Trong vòng cung từ Đông Nam sang Đông Bắc chỉ còn căn cứ không quân Biên Hoà, đang bị cắt đứt ngày chủ nhật, lần cuối cùng và mãi mãi. Những cuộc tấn công dữ dội vào các tiền đồn ở Mỹ Tho-Long An đã đẩy sư đoàn 9 lùi về phía Sài Gòn. Phía Nam và Tây Nam Sài Gòn, 20 nghìn bộ đội Bắc Việt Nam chỉ còn cách Sài Gòn 15 dặm. Phía Tây Bắc Sài Gòn, dọc quốc lộ 1 đi Campuchia, vài sư đoàn Bắc Việt Nam đã cắt đứt con đường ấy, đẩy sư đoàn 25 giạt ra 2 hướng nằm ngoài xa vành đai Sài Gòn. Hai đại đội của sư đoàn 9 Bắc Việt Nam rẽ vào Gia Định, chốt các cầu trên quốc lộ 1 gần cửa hàng tạp hóa Mỹ và kho chứa hàng viện trợ Mỹ.

Các tướng lĩnh Sài Gòn bắt đầu dàn thế trận lần cuối. Biệt động quân và lữ đoàn dù cuối cùng được dàn thành hình quạt từ phía Nam sang Đông Bắc Sài Gòn. Đó là lực lượng phòng thủ đáng thương hại, bị áp đảo với tỷ lệ 1 chọi 15. Phe cộng đang thiết lập vị trí tiền tiêu, thử phản ứng của quân đội Sài Gòn. Nhưng viên tướng 4 sao duy nhất trong quân đội lúc bấy giờ là Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên đã lên máy bay riêng loại C.47 vào xế trưa thứ hai bay đi Băng-cốc. Hơn nửa số tướng lĩnh Sài Gòn đã bỏ chạy khỏi đất nước. Thủ tướng cuối cùng-Nguyễn Bá Cẩn cũng lên chiếc C.141 rời Sài Gòn.

Ba hoả tiễn rơi xướng Sài Gòn ngày thứ hai. Không cần lời cảnh cáo nào thêm nữa về việc cộng sản sẵn sàng đánh chiếm Sài Gòn. Đến trưa, thính giả nghe đài phát thanh của sứ quán biết được Martin đang làm gì trong phần thời gian cuối trong ngày cuối khốn khổ này. “Đại sứ Tám có một bộ sưu tập những vật quý giá trao cho đại sứ (Mỹ) giữ gìn và ông ta cần một số người gói hàng. Ông ta cần khoảng 20 hộp nhỏ, khoảng một tá hộp lớn hoặc thùng và một số chăn bông. Đại sứ Martin quan tâm trong vụ này: Chúng tôi muốn chuyển ông ta (Tám) và đi vào ngày hôm nay…”.

Ai đó ở đầu bên kia đài phát thanh của đại sứ quán đã vạch cho thấy những vấn đề cụ thể trong việc chuyển đồ cổ của tướng 3 sao Trần Ngọc Tám, người đã trở thành bạn của Martin khi cả hai đều làm đại sứ tại Thái Lan trong thập kỷ 60. Có lẽ Martin muốn giúp đỡ gói ghém hành lý. Nhưng những người di tản khác thì đang ra đi một cách khôn ngoan. Họ bỏ lại tài sản cuộc đời-hay nói đúng hơn là tìm cách dồn tài sản cuộc đời vào trong một cái túi đeo vài thôi thì mới thoát được.


Di tản.

Minh lớn lái xe đến dinh, dù đoạn đường chỉ 5 phút đi bộ. Minh gặp Hương tại cửa. Khi Hương đọc diễn văn ngắn trao quyền cho Minh thì tổng thống mới xem lại bài viết. Minh bước lên diễn đàn hô hào thành lập một chính quyền gồm mọi thành phần chính kiến khác nhau. Đám mây trên Sài Gòn bung ra và trút xuống một cơn mưa lớn. Một tiếng sét và sấm rền âm vang làm im lặng căn phòng. Lúc ấy là 5 giờ 15 chiều. Minh bước ra khỏi dinh, về ăn cơm chiều thì 5 chiếc phản lực A.37 đang bay thẳng về phía sân bay Sài Gòn. Những lệnh ngắn qua điện đài được đánh lên máy bay, yêu cầu chúng cho biết xuất xứ. Không có câu trả lời nào.

Đại tá Tuấn, tham mưu phó hành quân của Sài Gòn làm việc với sư đoàn 5 không quân tình cờ có mặt tại đài kiểm soát không lưu. Tuấn đang ra lệnh cho chuyến bay khác ngừng lại vì có mấy đen tích điện. Tuấn nghi ngờ 5 chiếc A.37 bèn ra lệnh gọi đi Cần Thơ và Biên Hoà. Các căn cứ này trả lời là họ không bay. Thật ra nó từ Phan Rang tới và do các phi công Bắc Việt Nam lái. Không có chuyến bay thử ngang qua một lượt. Ngay trong lần đầu tiên bay qua căn cứ, những phi công lái MiG lão luyện này đã bấm nút thả bom, một tá bom loại 500 bảng Anh rơi xuống khu vực quân sự.


Nguyễn Thành Trung và Từ Đễ sau khi không kích Tân Sơn Nhất.

Bài diễn văn kêu gọi thương thuyết của Minh lớn được A.37 trả lời sau 35 phút tính từ khi Minh ngừng nói. Tại Tân Sơn Nhất, hàng ngàn người đều kinh hoàng. Chưa mấy người nằm dưới trận ném bom. Trong hầu hết mọi tần số, tiếng gọi qua điện đài loạn xạ xin được hướng dẫn phải làm gì. Một người Mỹ trong sứ quán nói với các người đang nghe tần số của mình: “Chẳng thể làm gì được cả. Nằm sấp xuống và nín thở thôi”. Người khác nói: “Chúng tới thì hãy ôm lấy hai bắp chân vào mình, cúi đầu xuống càng thấp càng tốt. Nếu cần, hôn từ giã cái mông của anh đi”. Tuấn muốn phóng các F.5 lên trời. Một lần nữa các phi công Sài Gòn không có mặt trong máy bay theo quy định.

Tại trung tâm Sài Gòn, dân chúng biết chắc rằng cuộc tấn công sau cùng vào Sài Gòn đã bắt đầu. Hơn 100 nghìn bộ đội Bắc Việt Nam và những người Việt Cộng dẫn đường, vũ khí đã lên vai sẵn sàng san bằng Sài Gòn. Từ bây giờ trở đi, nó sẽ là cuộc chiến tranh không còn hạn chế và kiềm chế nữa. Đêm thứ hai, sau cuộc ném bom, người phát ngôn Sài Gòn cho biết điều kiện đi đến hoà bình là “giải trừ bộ máy chiến tranh và kìm kẹp của Sài Gòn”. Nói khác đi, quyết định đã có rồi. Sài Gòn sẽ đầu hàng quân sự hoặc là quân đội Bắc Việt Nam sẽ đánh chiếm thủ đô. Trường hợp sau, ít có hy vọng là họ sẽ thua trận.

Nguồn: vnmilitaryhistory
Vkyno (st)