Trang chủ > Chiến tranh Việt Nam > Nhớ lại trận then chốt chiến dịch. (Phần 2)

Nhớ lại trận then chốt chiến dịch. (Phần 2)

Tháng Năm 2, 2013

Quân giải phóng đánh chiếm sân bay

Phần 2

Sau khi giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, biết thế nào địch cũng phản kích để định chiếm lại Buôn Ma Thuột, ta đã chủ động điều ngay Sư đoàn 10 (thiếu) về ngay đông bắc Buôn Ma Thuột để đánh địch phản kích, và gạn lọc tình huống đánh địch đi phản kích bằng máy bay lên thẳng. Vì đi phản kích là chữa cháy; phải đi rất nhanh. Mưu kế của địch sau khi mất Buôn Ma Thuột là một mặt đưa Sư đoàn 23 ra phản kích và mặt khác là đưa lữ đoàn 3 dù ra chiếm lĩnh đèo Phượng Hoàng để ngăn chặn ta tiến xuống Nha Trang.

Đánh hậu cứ Trung đoàn 53

Bị mất Buôn Ma Thuột bọn tàn quân địch chạy về căn cứ 45, trường huấn luyện, căn cứ 53, một số tên chạy về ấp Châu Sơn, nhằm co cụm cố giữ những căn cứ còn lại làm bàn đạp chờ quân ở Bản Đôn, Chư Nga kéo về, quân tăng viện tới, hòng cùng nhau phối hợp thực hành phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột.

Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh tổ chức ngay lực lượng, nhanh chóng phát triển tiến công đánh chiếm các mục tiêu còn lại ở ngoài thị xã và truy lùng tàn quân địch lẩn trốn, để ổn định tình hình trong thị xã để sẵn sàng đánh địch phản kích. Trong đó mục tiêu chủ yếu là căn cứ Trung đoàn 53.

Thượng tướng, giáo sư Hoàng Minh Thảo tên thật là Tạ Thái An, sinh năm 1921 tại làng Cao, xã Bảo Khê, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên trong một gia đình thợ may, cha là Tạ Quang Khai, mẹ là bà Nguyễn Thị Tành.

Cũng như bao nhiêu thanh niên Việt Nam giác ngộ thời đó, ông rời quê hương đi tham gia cách mạng từ năm 1937, hoạt đông ở Lạng Sơn. Từ năm 1941 đến năm 1944 ông được Bác Hồ cử đi học quân sự tại trường Tây Cán Bang ở Liễu Châu, Trung Quốc. Trở về nước tham gia Cách mạng Tháng Tám rồi trở thành Tư lệnh Chiến khu 3 (1945-1946), Tư lệnh Chiến khu 4 (1948-1950). Năm 1950, ông làm Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304, năm 1954 ông được bổ nhiêm làm Hiệu trưởng Trường Quân chính.

Ông là người đam mê đánh giặc bằng mưu kế, thế trận điển hình là chiến dịch Đắc Tô 1 (1967) chiến dịch Đắc Xiêng (1970), chiến dịch Đắc Tô – Tân Cảnh (1972), chiến dịch Tây Nguyên mà ông đều làm tư lệnh là đỉnh cao về nghệ thuật đánh giặc bằng mưu kế của ông. Và, ông luôn tạo ra được niềm tin cho những sĩ quan và chiến sĩ của mình.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuốn “Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng” viết: “Trong một buổi làm việc, anh Hoàng Minh Thảo với nhãn quan một nhà nghiên cứu khoa học quân sự đã nêu khi đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột, vì đây là một thị xã lớn nhất, là nơi hiểm yếu và cũng là nơi địch sơ hở nhất và có khả năng phát triển xuống đồng bằng. Khó khăn phải vượt qua để tiến công trên hướng này là thiếu đường hành quân, thiếu nước”.

…  Nội dung dưới đây trích giai đoạn đầu của trận then chốt chiến dịch

Tây Nguyên, trận Buôn Ma Thuột, theo cuốn “Chiến đấu ở Tây Nguyên” của cố giáo sư Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên năm 1975.

Căn cứ Trung đoàn 53 nguỵ nằm về đông nam sân bay Hoà Bình, cách trung tâm thị xã khoảng 10km. Căn cứ được thiết bị phòng ngự rất vững chắc. So với các căn cứ khác, căn cứ 53 được bố trí phòng ngự vững chắc hơn cả. Quanh căn cứ có 5 đến 7 lớp rào kẽm gai, xen kẽ giữa các lớp rào là bãi mìn. Lớp tường đất bao quanh căn cứ đắp cao và dày, các lô cốt và các ụ súng cũng được bố trí ngay trong tường đất hướng mũi súng ra ngoài. Hai hầm chỉ huy của Trung đoàn trưởng bằng bê tông xây chìm xuống đất. Trong căn cứ lúc này có Trung đoàn 53 (thiếu), 1 chi đội M113, do viên trung tá đoàn trưởng Võ Ân chỉ huy. Gọi là căn cứ Trung đoàn 53, nhưng đó là hậu cứ của 2 Trung đoàn 44 và 53. Dựa vào hầm ngầm chúng chống trả quyết liệt và làm thất bại các cuộc tiến công của ta.

Khi vạch kế hoạch tác chiến, Bộ Tư lệnh chiến dịch rất quan tâm đến mục tiêu sân bay Hoà Bình và căn cứ Trung đoàn 53. Bởi kinh nghiệm từ năm 1972, khi quân ta đã bao vây thị xã Kon Tum, quân nguỵ chỉ còn một cửa ngõ duy nhất là sân bay Kon Tum. Vậy mà, từ sân bay còn giữ được này, quân nguỵ dùng làm bàn đạp đưa Sư đoàn 23 đến phản kích để giành giật lại được thị xã.

Do vậy, việc đánh chiếm căn cứ Trung đoàn 53 và sân bay Hoà Bình lúc này là rất quan trọng, nhằm đập tan khu vực đầu cầu để phản kích của Sư đoàn 23 hòng chiếm lại thị xã Buôn Ma Thuột.

Trước mắt việc đánh chiếm sân bay Hoà Bình (Phụng Dực) do Trung đoàn đặc công 198 đảm nhiệm. Trung đoàn đặc công 198 được trang bị súng phòng không12,7 mm và tên lửa phòng không vác vai A72 để có thể đủ khả năng trụ bám lại sau khi đánh chiếm được sân bay. Do bảo đảm tính bí mật, bất ngờ, nên Trung đoàn phải hành quân theo đường giao liên xuống Phú Yên rồi mới vòng trở lại. Đường đi mất 12 ngày, đến ngày thứ 9 lương thực đã cạn nên có đơn vị phải đào củ mài để ăn. Do hành quân liên tục, nên nhiều ngày Trung đoàn không giữ được liên lạc với sở chỉ huy chiến dịch.

Tuy vậy, đúng theo hiệp đồng, 2 giờ 10 phút ngày 10 tháng 3 Trung đoàn 198 đã nổ súng và nhanh chóng đánh chiếm được sân bay Hoà Bình. Riêng đội đặc công đánh vào căn cứ 53 gặp nhiều trở ngại. Sau khi đột nhập vào căn cứ, các mũi đã nổ súng đánh được một số mục tiêu, nhưng sau đó lại bị địch đánh bật ra. Quân địch phát hiện được cửa mở xông ra bịt lại. Một số rút được ra ngoài, nhưng một số khác đã bị địch bắt và chúng đã đưa vào căn cứ tra tấn đánh đập, có đồng chí bị chúng thiêu chết rất dã man.

Ngày 12 tháng 3, Phạm Văn Phú bay trực thăng đến vùng trời căn cứ 53. Phú đã cho trung tá Võ Ân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 53 biết quân tăng viện đang được đổ xuống Phước An để giải vây tái chiếm lại thị xã và toàn bộ Sư đoàn 23 đang rời Mặt trận Nam Plâyku, trở về Buôn Ma Thuột trong một cuộc hành quân trực thăng vận đại qui mô và động viên tên này cố chống cự đến cùng, chờ Sư đoàn 23 về phản kích đánh chiếm lại Buôn Ma Thuột.

Trực thăng vũ trang sư đoàn 6 không quân, liên tục chở quân và sử dụng hỏa lực chi viện phản kích mà không tái chiếm được

Thực hiện ý định đó, Ân đã chỉ huy Trung đoàn 53 chống cự rất ngoan cố. Y đã ra lệnh cho binh lính: “Kẻ nào ra khỏi công sự sẽ bị bắn tại chỗ”. Được cấp trên khích lệ, Võ Ân càng tỏ ra độc ác, hắn ra lệnh cho binh lính trong căn cứ tăng cường củng cố công sự. Mỗi gia đình binh lính bị lùa vào giữ một lô cốt, hoặc một côngtơnơ được đắp bao cát xung quanh; trong mỗi lô cốt có một khẩu đại liên và một bao lựu đạn to. Khi căn cứ bị tiến công, tên nào rời công sự lập tức bị bắn chết tại chỗ. Theo lệnh của Ân, các tên chỉ huy cấp dưới của hắn đã tàn sát dã man những người rời vị trí, có khi chỉ vì đi xin nước uống, xác chết chỉ được vùi lấp qua loa.

Do các nơi đều bị mất, nên tàn quân địch đợi đến đêm lén chạy trốn vào căn cứ, mặc dù đã bị quân ta vây bên ngoài bắn đuổi theo chúng vẫn cố lao vào căn cứ.

Liên đoàn biệt động quân số 21 (thiếu) sau khi thấy Buôn Ma Thuột bị mất, cũng đã lần mò về phía đông căn cứ 53. Binh lính các nơi khác bị thua cũng đều dồn về căn cứ 53. Lúc này căn cứ 53 như cái túi chứa đủ mọi loại tàn quân của địch.

Căn cứ 53 còn thì sân bay Hoà Bình có nguy cơ sẽ bị địch chiếm lại và đó sẽ là cửa ngõ để địch đưa quân phản kích giành lại thị xã. Do vậy, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định đưa Trung đoàn 149, Sư đoàn 316 vào tiến công căn cứ 53.

Ngày 14 tháng 3 khi tiến công Trung đoàn 149 đã đánh nhầm vào khu điều vận máy bay, vì không nhận rõ được mục tiêu; đến khi tiến sang căn cứ 53 thì đã bị địch biết và chặn lại.

Ngày 15 tháng 3, Trung đoàn 149 tiến công lần thứ hai. Máy bay địch đến đánh vào đội hình gây thương vong nặng cho Trung đoàn, cuộc tiến công vào căn cứ 53 lần này vẫn bị thất bại.

Tuy quân địch vẫn còn giữ được căn cứ 53, nhưng chúng đã hết lương thực, địch phải dùng máy bay thả dù xuống tiếp tế. Vì sợ pháo cao xạ của ta nên máy bay phải bay rất cao để thả dù và dù đã lọt vào tay quân ta. Tình trạng thiếu lương thực, thiếu nước, người chết tăng lên mà không có chỗ chôn cộng với mùi khói đạn làm cho bầu không khí trong căn cứ hết sức căng thẳng và ghê rợn.

Lúc này, Trung đoàn 45, Sư đoàn 23 đã đổ bộ bằng máy bay lên thẳng xuống đông bắc căn cứ 53, một đại đội trinh sát của Trung đoàn 45 đã tiến đến gần sát rào căn cứ này. Do vậy Trung đoàn 53 càng chống cự lại ta một cách điên cuồng.

Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định sử dụng Trung đoàn bộ binh 66 của Sư đoàn 10 vừa từ Đức Lập về, được tăng cường 1 đại đội xe tăng phối thuộc cho Sư đoàn 316 để tiêu diệt căn cứ 53.

Đêm 16 rạng ngày 17 tháng 3 dưới sự chi viện đắc lực của cụm pháo binh chiến dịch, Trung đoàn 66 đã từ hướng tây bắc và Trung đoàn 149 từ hướng tây nam đã đột phá vào căn cứ 53. Quân địch bị tiêu diệt phần lớn, số còn lại tháo chạy về phía đông

.

Căn cứ 53 bị tiêu diệt, bàn đạp triển khai phản kích của Sư đoàn 23 đã bị mất. Niềm hy vọng tái chiếm lại thị xã Buôn Ma Thuột của địch đã bị lung lay.

Trong lúc này trên các hướng khác, bộ độ đã tiến công địch dồn dập.

Ngày 19 tháng 3 Trung đoàn 271 đã chiếm ấp Nhân Cơ Nhơn Hải, áp sát vào sân bay Nhân Cơ.

Trước đó trên các hướng phối hợp.

Ngày 11 tháng 3, Trung đoàn 25 diệt một đoàn xe địch trên đường số 2 1 ở khu vực Chư Cúc và diệt một bộ phận địch từ Khánh Dương lên giải toả đường 21.

Ngày 12 tháng 3, Trung đoàn 19 Sư đoàn 968 đã chiếm thêm 2 vị trí của địch ở nam Plâyku, áp sát vào quận lỵ Thanh Bình 2, uy hiếp Thanh An, tiếp tục bắn pháo vào Plâyku, Kon Tum.

Ngày 13 tháng 3, Trung đoàn 95A tiêu diệt một cụm địch ở ngã ba Plâyku. Tiếp đó, đã tiêu diệt 2 chi đoàn thiết giáp, đánh bại phản kích của địch và phát triển xuống hướng đèo Mang Giang. Ở phía đông, sau khi tiêu diệt 9 chốt của địch, Sư đoàn 3 (thiếu) Quân khu 5 đã phát triển tiến công về hướng Vườn Xoài, đường số 19 vẫn tiếp tục bị cắt đứt hoàn toàn.

Trên các chiến trường bạn, ngày 10 tháng 3 bộ đội Quảng Nam đã đánh chiếm quận lỵ Tiên Phước, Phước Lâm, uy hiếp địch ở Tam Kỳ. Tiếp đó, đã đánh bại các đợt phản kích của Sư đoàn 2 nguỵ.

Ở Thừa Thiên, ngày 10 tháng 3 Sư đoàn 324, Quân đoàn 2 đã tiến công căn cứ 303 và nhiều căn cứ khác trên trục đường số 14 ở khu vực phía tây Truồi.

Ở Nam Bộ, đã đánh mạnh ở Bình Long và Tây Ninh.

Thời gian là lực lượng !

Có điều gì khắc nghiệt mà dễ hiểu hơn chân lý đó của chiến tranh? Tranh thủ được một tiếng đồng hồ, lực lượng có thể tăng gấp đôi, tranh thủ được 24 tiếng đồng hồ, lực lượng có thể tăng gấp mười !

Khi nhận thấy không còn cần thiết, Bộ Tư lệnh đã điều ngay tiểu đoàn làm dự bị Sư đoàn 10 về trong đội hình Trung đoàn 24 và cho lệnh điều tiếp Trung đoàn 66 khi Đức Lập đã chắc thắng, khẩn trương cơ động về vị trí sẵn sàng đánh địch phản kích.

Để tranh lấy yếu tố thời gian, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã huy động tất cả các phương tiện cơ giới có thể có được lúc đó để cơ động bộ đội. Vừa ra khỏi chiến đấu, đẫm mình hơi thuốc súng và bụi đất, nguyên cả âm vang của thắng lợi vừa qua và lòng hăm hở hướng tới, các chiến sĩ Sư đoàn 10 lại lao nhanh trên đường để bước tiếp vào trận chiến đấu mới. Dù kẻ địch có điều đến thêm lực lượng thì Sư đoàn dự bị chiến dịch đã sẵn sàng đối phó. Vấn đề quan trọng nhất lúc này là chúng ta phải tranh thủ được thời gian.

Vừa cơ động đến nơi, từng đơn vị của Sư đoàn 10 đã lao ngay vào trận chiến đấu đánh địch trong hành tiến, và trận chiến đấu quyết định số phận Sư đoàn bộ binh 23, liên đoàn biệt động 21 và thậm chí cho cả chiến dịch nam Tây Nguyên đã đến.

Sau khi ta giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, bọn chỉ huy địch đề ra một số tình huống xử trí như sau:

– Ngăn chặn bước tiến của quân ta từ Buôn Ma Thuột theo đường số 21 về Ninh Hoà và Nha Trang.

– Đối phó với cuộc tiến công của quân ta vào Plâyku

– Có điều kiện thì phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột.

Thế nhưng, trong thế trận lúc bấy giờ, đối với tình huống nào chúng cũng khó xử trí.

Bản thân lực lượng quân đoàn 2 của địch ở Tây Nguyên chỉ có Sư đoàn 23 là đáng kể, còn các liên đoàn biệt động quân thì sức chiến đấu kém. Lực lượng tổng dự bị chiến lược thì bị phân tán ở nhiều nơi và cũng đang bị tiến công. Bọn chỉ huy quân đoàn 2 ngụy giờ đây sống chết phải tự mình lo liệu, không nhờ cậy được gì ở sự chi viện của bọn cầm đầu Mỹ – nguỵ.

Vô cùng bối rối và cay đắng, bọn chúng chỉ có cách tung đứa con cưng là Sư đoàn 23 (thiếu) gồm Trung đoàn 44 và Trung đoàn 45 xuống phía đông Buôn Ma Thuột, trên đường số 21. Mọi đường bộ đều bị quân ta chiếm giữ và cắt đứt. Chúng không có cách nào hơn là đổ quân xuống bằng máy bay lên thẳng. Như vậy, số quân phản kích không thể mang theo xe tăng mà chỉ có một số khẩu pháo, rất ít đạn dược, xăng dầu và các thứ cơ sở vật chất khác.

Rõ ràng, hai Trung đoàn bộ binh đổ bộ bằng máy bay lên thẳng dù có liều lĩnh cũng không thể đối địch được với một đối phương hùng mạnh, có đủ các binh chủng đang tràn đầy khí thế chiến thắng và đang ở trong cao trào của cuộc tiến công mãnh liệt. Mặc dầu có một số máy bay chi viện, song không có xe tăng và pháo binh thì bọn quân phản kích của địch khó có sức chiến đấu mạnh,

Đây là vấn đề gạn lọc tình huống. Địch đi phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột có hai tình huống. Tình huống đi đường bộ và tình huống đi bằng máy bay lên thẳng. Ta cho Sư đoàn 320 ra cắt đường. Địch không có khả năng đi đường bộ. Vì đi phản kích như đi chữa cháy, phải đi bằng máy bay. Ta gạn lọc tình huống đi bằng đường bộ, buộc địch phải đi bằng máy bay ta đánh dễ hơn.

Từ chiều ngày 12 tháng 3 đến hết ngày 13 tháng 3 năm 1975, với tổng số 145 lần chiếc máy bay lên thẳng và 81 lần chiếc các loại máy bay chiến đấu cường kích hoạt động yểm hộ, địch đã đổ Trung đoàn 45 và pháo đội 232 xuống đông Buôn Ma Thuột, từ điểm cao 581 và dọc theo đường số 21 đến Phước An.

Trong ngày 12 tháng 3, ta được tin tên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 23 nguỵ báo cho căn cứ 53 ở sân bay Phụng Dực (Hoà Bình) đang bị quân ta bao vây là: chúng sẽ có lực lượng xuống tăng viện, ứng cứu và sẽ thực hiện phản kích lấy lại thị xã Buôn Ma Thuột. Theo kế hoạch phản kích, chúng lấy khu vực từ căn cứ 45 đến căn cứ 53 và điểm cao 581 làm tuyến bàn đạp, các lực lượng tàn quân phải tập trung về đó, phối hợp với quân đến tăng viện để thực hành phản kích vào đông và đông – nam Buôn Ma Thuột.

Kế hoạch tiêu diệt Sư đoàn 23 nguỵ đã được lập ra kế tiếp ngay sau với kế hoạch đánh thị xã Buôn Ma Thuột. Bởi vì gần như điều tất yếu Buôn Ma Thuột bị tiến công thì đơn vị đầu tiên về ứng cứu sẽ là Sư đoàn 23. Mặt khác, hậu cứ của Sư đoàn này ở Buôn Ma Thuột, nên binh lính càng nóng lòng muốn về chốn cũ. Dự kiến đánh địch phản kích của ta rất chủ động. Ta đã bố trí lực lượng đánh phản kích trước khi địch đổ quân hướng đông bắc Buôn Ma Thuột.

Trong kế hoạch đánh Sư đoàn 23 điều cốt lõi là dự kiến cho đúng thời gian, địa điểm và cách thức trở về của sư đoàn này để điều hành chuyến trở về của nó theo quyết định của ta. Từ việc gạn lọc tình huống ta đã dự kiến, Sư đoàn 23 có thể về sau khi Buôn Ma Thuột bị tiến công 2-3 ngày.

Về địa điểm, ta dự kiến chúng có thể xuống đường số 14, hoặc đường số 21.

Về cách thức đi về thì đường bộ đã bị ta cắt đứt, sân bay ta đã bị khống chế, nên chúng chỉ có thể trở về bằng máy bay lên thẳng, mà loại máy bay này trong biên chế của quân nguỵ chỉ đủ khả năng chở lần lượt từng Trung đoàn và không mang theo được xe tăng và những dàn pháo lớn đi cùng.

Để loại trừ khả năng địch xuống đường 14, ta phải quét sạch địch trên con đường này và chiếm lĩnh ngay các địa hình mà chúng có thể lợi dụng để triển khai phản đột kích vào thị xã. Giải quyết được việc đó thì địch chỉ còn một địa điểm đổ quân là đường số 21 và ở đó còn có sự kháng cự của Trung đoàn 53.

Từ dự kiến trên, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 10 (từ Đức Lập mới về) chuẩn bị tiêu diệt Sư đoàn 23 trên đường số 21.

(Xin lưu ý cùng bạn đọc. Vì các trận được kể ra ở đây có lúc diễn ra gối đầu nhau, nên về mặt thời gian đôi khi phải lặp lại. Mong bạn đọc chú ý theo dõi. Cảm ơn ).

Quân nguỵ thực hành phản kích hòng tái chiếm Buôn Ma Thuột. Diễn biến này được kể lại như sau:

“Cuộc đổ quân tăng viện cho Mặt trận Buôn Ma Thuột trong 2 ngày 12 và 13 tháng 3 năm 1975 được coi là cuộc đổ quân tăng viện bằng trực thăng vĩ đại nhất kể từ khi Hiệp định Pa ri 1973 được ký kết, và cũng là cuối cùng trên chiến trường Cao nguyên.

Những phi đoàn trực thăng của các Sư đoàn 1 và 4 không quân từ Đà Nẵng, Cần Thơ cùng với một số trực thăng cơ hữu của Sư đoàn không quân (Plâyku), với hơn 100 trực thăng đủ loại kể cả những Chinook khổng lồ, đều được tập trung để sử dụng cho cuộc đổ quân tăng viện này.

Từ 8 giờ sáng ngày 12 tháng 3, tại căn cứ Hàm Rồng, bản doanh Bộ Tư lệnh hành quân của Tư lệnh Mặt trận Nam Plâyku, và bộ chỉ huy các Trung đoàn 45 và 44 thuộc Sư đoàn 23, trực thăng bay rợp trời. Những sĩ quan điều khiển và chỉ huy cuộc hành quân này là các Trung đoàn trưởng, trưởng phòng 3 hành quân của quân đoàn 2 và Sư đoàn 23, phi đoàn trưởng phi đoàn trực thăng Sư đoàn 6 không quân.

Đợt bay đầu tiên, đại đội trinh sát của Sư đoàn 23 và 2 tiểu đoàn tác chiến của Trung đoàn 45 được bốc đi trước nhất.
Tiếp đó, những Chinook khổng lồ móc theo những khẩu đại bác 105 ly thả xuống trận địa, Quận lỵ Phước An phía đông Buôn Ma Thuột là địa điểm mà đoàn quân tăng viện nhảy xuống”.

Cũng theo lời kể:

“13 giờ trưa ngày 12 tháng 3, tướng Phạm Văn Phú rời Plâyku bay chỉ huy mặt trận Buôn Ma Thuột trên chiếc phi cơ nhỏ U- 17. Tới Buôn Ma Thuột khoảng 14 giờ 30, tướng Phú đã bay trên trận địa chỉ huy các cánh quân gần 1 giờ liền. Lần lượt tướng Phú đã liên lạc ra lệnh cho tất cả đơn vị trưởng các đơn vị đang chiến đấu phía dưới, như Trung đoàn bộ binh 53, liên đoàn 21 biệt động quân, các tiểu đoàn địa phương quân Đăk Lắc.

Vẫn không có tin tức gì về đại tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó Sư đoàn 23 và đại tá tỉnh trưởng Buôn Ma Thuột, ngoài nguồn tin của các đài phát thanh Việt Cộng loan báo họ đã bắt sống.

Buổi trưa ngày 12 tháng 3, trời trong sáng. Từ trên cao, qua khung cửa sổ nhỏ của chiếc U-17 cả một vùng trời và thị xã Buôn Ma Thuột hiện ra rất rõ. Những phản lực cơ A -37 và khu trục cơ vẫn tiếp tục bay tới đánh bom yểm trợ cho những cánh quân bạn dưới đất. Từng cột khói, và những đám cháy bốc cao. Dân chúng kéo nhau lũ lượt băng rừng chạy về phía Phước An, Khánh Dương.

Tướng Phú trở về Plâyku được tin Tổng thống Thiệu gọi lên lúc 14 giờ, khi ông đang bay thanh sát mặt trận Buôn Ma Thuột, ông đã liên lạc với Sài Gòn và trình Tổng thống Thiệu tình hình sau cùng của trận chiến Buôn Ma Thuột. Cả Tổng thống Thiệu và tướng Phú đều lo ngại về sự cung khai của hai tù binh Bắc Việt do Trung đoàn bộ binh 53 bắt được về nguồn gốc đại đơn vị của chúng: Sư đoàn 316 tổng trù bị Cộng sản Bắc Việt, mà theo tin tức tình báo còn ở ngoài Thanh Hoá tháng trước. Tổng thống Thiệu cũng đã ra lệnh cho tướng Phú phải thâu thập mọi tin tức địch tình chính xác tại Mặt trận Buôn Ma Thuột, và đặc biệt về Sư đoàn 316, đệ trình lại ông trong một buổi họp quan trọng sắp tới mà tướng Phú sẽ được thông báo sau .

Chiều ngày 12 tháng 3, Việt Cộng từ những đỉnh cao phía tây bắc Plâyku quân ta nã hoả tiễn vào phi trường quân sự Cù Hanh, và bộ tư lệnh quân đoàn. Một quân nhân tài xế bị trúng đạn tử thương ngay gần cột cờ trước bộ tư lệnh làm cho tướng Phú nổi cơn thịnh nộ. Người sĩ quan chỉ huy lực lượng thám kích quân đoàn 2, thiếu tá Ngọ được lệnh bằng mọi cách không để cho một hoả tiễn, hay một viên đạn súng cối nào của địch bay tới Bộ Tư lệnh quân đoàn nữa (!) đứng đó chịu trận, và thấy trước mặt những cơn thịnh nộ khác của vị tư lệnh quân đoàn còn tiếp tục đến với ông ta. Bởi vì với núi đồi trùng điệp với đêm tối chỉ cần một vài đặc công cảm tử của Việt Cộng sau khi thoát được những ổ phục kích của lực lượng thám kích quân đoàn 2, đeo ống phóng bò tới gần cho những hoả tiễn bay khỏi nòng rồi bỏ chạy, thì chẳng có cách nào có thể tìm ra tung tích của chúng. Nhưng, trong quân đội, “lệnh là lệnh !”.

Tướng Phú đi trực thăng vào vùng trời Buôn Ma Thuột lần này là để chọn đường về cho Sư đoàn 23. Ý tưởng đó được hình thành ngay sau khi biết tin xe tăng của Việt Cộng đã cán xích trên đường phố Buôn Ma Thuột. Nhưng về bằng con đường nào? và triển khai ở đâu? Tình hình biến chuyển quá nhanh.

Sau khi thị xã Buôn Ma Thuột bị mất, đại tá Quang và đại tá Luật bị bắt. Phần lớn các căn cứ chung quanh Buôn Ma Thuột đã bị đánh chiếm. Hiện chỉ còn căn cứ 53 và quận ly Phước An là những nơi có thể dựa được. Phú quyết định chọn khu vực này để đưa Sư đoàn 23 về đứng chân. Muốn vậy phải giữ được căn cứ 53 bằng mọi giá. Phú bay trên vùng trời căn cứ 53 động viên Võ Ân cố gắng giữ vừng căn cứ và hứa sẽ đưa Sư đoàn 23 về ngay.

Do con đường số 14, con đường bộ duy nhất nối Plâyku với Buôn Ma Thuột đã bị Sư đoàn 320 cắt đứt, nên cách duy nhất để đưa được cả Sư đoàn 23 về là sử dụng máy bay trực thăng chở quân. Tuy vậy, dù có cố gắng đến mấy thì mỗi ngày cũng chỉ đổ quân được một Trung đoàn. Và như vậy phải mất hai, ba ngày mới xong.

Về phía ta, thấy trước âm mưu và khả năng phản kích của địch vào thị xã, ngay sau khi trận Đức Lập vừa kết thúc, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã điều Sư đoàn 10 tới phía đông Buôn Ma Thuột sẵn sàng đánh quân địch phản kích. Như đã dự kiến từ trước về tình huống này, nhằm đánh bại âm mưu dùng các căn cứ còn lại làm bàn đạp đổ quân phản kích hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột. Ngay trong đêm 11 tháng 3, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho Sư đoàn 10 tổ chức tiêu diệt căn cứ 45 và cứ điểm Chư Nga, Trung đoàn 149, Sư đoàn 316 và Trung đoàn đặc công 198 tiêu diệt căn cứ B50.

5 giờ sáng ngày 12 tháng 3 cùng thời gian với các đơn vị đánh căn cứ B50, được sự chi viện của pháo binh Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 24, Sư đoàn 10 cùng xe tăng chia thành hai mũi đột kích, thọc thẳng vào trung tâm căn cứ 45.

Thật rủi ro cho quân địch tăng viện. Hồi 9 giờ 30 phút ngày 12 tháng 3, quân ta đã chiếm mất căn cứ 45 rồi. Thế là Trung đoàn 45 và pháo đội 232 của địch không còn chỗ đứng chân ở căn cứ 45 nữa, và chúng cũng chẳng liên lạc được với căn cứ 53. Cuối cùng chúng buộc phải đổ xuống các toạ độ không được xác định trước ở khu vực Nông Trại – Phước An. Bọn tàn quân của liên đoàn biệt động quân số 21 đang tháo chạy tan tác vội xô nhau tới nhờ bọn mới đổ bộ tăng viện che chở.

Nhưng, như ta biết: trong phương án tác chiến chiến dịch, quân ta đã chuẩn bị sẵn sàng đánh quân địch tăng viện bằng đường không. Sau khi giải phóng Buôn Ma Thuột, ta đã di chuyển các trận địa pháo binh và pháo cao xạ ra phía đông thị xã này. Sau khi tiêu diệt địch và hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Đức Lập, Sư đoàn bộ binh 10 dự bị của chiến dịch, 1 sư đoàn tinh nhuệ do đại tá Hồ Đệ chỉ huy; người có nhiều kinh nghiệm tác chiến binh chủng hợp thành đã tổ chức lực lượng, khẩn trương chuyển đến khu vực tác chiến dự kiến.

Từ ngày 10 tháng 3, các lực lượng của Sư đoàn đã lần lượt hành quân bằng cơ giới qua hơn 100 ki-lô-mét đường quân sự làm gấp tới đông Buôn Ma Thuột. Trung đoàn 24 là đơn vị đầu tiên triển khai lực lượng sẵn ngay tại chỗ. Trung đoàn 45 địch vừa đổ quân xuống, liền bị Trung đoàn 24 của ta đánh luôn một trận phủ đầu và lập tức bị ngăn chặn không liên hệ được với Trung đoàn 53 nguỵ đang bị quân ta bao vây tiến công uy hiếp ở sân bay Phụng Dực. Quân ta liên tục bám đánh và bao vây cô lập quân viện, tạo thế cho các lực lượng của Sư đoàn tiếp sau triển khai đội hình tiến công.

Mưu kế của địch là Trung đoàn 53 cố giữ vững trận địa, đợi Trung đoàn 45 tới cùng hiệp lực để đánh chiếm lại Buôn Ma Thuột.

Chiều ngày 12 đến sáng 13 tháng 3, phát hiện địch cho Trung đoàn 45 của Sư đoàn 23 đổ quân xuống vùng cao điểm 581, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho Sư đoàn 10 tiến công Trung đoàn 45 nguỵ.

Quân địch từ chỗ tăng viện để phản kích của quân ta, giờ đã trở thành kẻ bị bao vây. Chúng hiểu được nguy cơ đó nên chúng rất tích cực đào công sự, rất tích cực “gào” máy bay, pháo binh bắn phá oanh tạc ngăn chặn quân ta.

Suốt đêm 13 tháng 3, địch cho máy bay C.130 liên tục thay nhau thả pháo sáng, bắn đạn 201y quanh cao điểm 581 và dọc đường 21 để trấn an tinh thần bọn lính vừa được đổ xuống. Song địch ngăn sao nổi dòng thác tiến công của quân ta ập tới.

Ngay trong đêm 13 tháng 3, Trung đoàn 24 và các đơn vị tăng cường của quân ta đã vượt mọi địa hình sình lầy, gai góc, đường khúc khuỷu, quanh co dưới làn pháo đạn địch để tiến vào vị trí xuất phát tiến công. Vì gặp khó khăn nên các hướng quân ta không thực hiện được kế hoạch hiệp đồng theo giờ “G” nổ súng vào lúc trời mờ sáng.

Tới 7 giờ ngày 14 tháng 3, pháo binh ta mới bắt đầu bắn được, Trung

đoàn 24 cùng xe tăng của Trung đoàn 273 chia thành 2 mũi đột thẳng lên cao điểm 581. Khi thấy bộ binh ta và xe tăng tiến đến gần, nhiều

tên địch khiếp sợ xin hàng hoặc bỏ chạy. Bị truy ép từ phía sau, lại rơi đúng vào trận địa đón lõng của ta ở phía trước, các lực lượng của tiểu đoàn 2 nguỵ nhanh chóng bị tiêu diệt và tan rã. Thừa thắng các chiến sĩ Trung đoàn 24 cùng xe tăng đánh thẳng ra đường 21.

Mặc dù lực lượng ít, các chiến sĩ ta vẫn táo bạo lao vào giữa đội hình dày đặc của tiểu đoàn 1 nguỵ, dùng hoả lực diệt chúng và tiếp tục phát triển về phía đông. Trên đường tiến công, một chiếc cầu bị đại đội bảo an cho nổ bộc phá rồi bỏ chạy. Các chiến sĩ công binh nhanh chóng làm ngầm cho xe tăng tiếp tục truy kích và phải mất gần hai giờ chiến đấu với địch, bộ binh và xe tăng ta mới làm chủ hoàn toàn được trận địa tới phân chi khu Phước Bình.

Đến 12 giờ ngày 14 tháng 3 Trung đoàn 24 đã tiêu diệt, làm tan rã tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 45 và tiểu đoàn bảo an địch đóng tại khu vực, chiếm điểm cao 581, giải phóng đoạn đường số 21 dài 12 ki-lô-mét. Quân địch còn lại tháo chạy, chiều 14 tháng 3 chúng co cụm vào được khu Nông Trại. Quân ta lập tức tung ngay trinh sát bám sát chúng, đồng thời tổ chức các lực lượng phát triển tiếp theo.

Mưu kế của địch vẫn không thay đổi, chúng chuẩn bị cho Trung đoàn 44 xuống tiếp để cứu Trung đoàn 45 và chi viện cho Trung đoàn 53.

Mưu kế đối phó của ta khi một tiểu đoàn của Sư đoàn 316 và một đội đặc công không đánh được Trung đoàn 53 địch ở căn cứ 53, ta điều Trung đoàn 66, Sư 10 vào tác chiến để phá tan bàn đạp căn cứ 53. Trung đoàn 66 vào tác chiến là ta tiêu diệt được Trung đoàn 53.

Tình thế chiến trường ở khu vực đường số 21 lúc này chuyển biến rất nhanh, một hình thái mới đã xuất hiện: Quân địch tuy vẫn còn khả năng đưa thêm quân đến tăng viện, nhưng bàn đạp để chúng triển khai thực hành phản kích vào Buôn Ma Thuột đã bị đẩy ra xa. . . Xét các yếu tố tinh thần, vật chất của địch, trước mắt chúng không đủ sức phản kích và thời cơ phản kích trực tiếp vào Buôn Ma Thuột cũng không còn nữa.

TDB-thực hiện
qdnd.vn

Chuyên mục:Chiến tranh Việt Nam