Lưu trữ

Archive for the ‘Hồ sơ mật của CIA’ Category

Giờ phút định mệnh – Kỳ cuối

Tháng Tư 11, 2011 Bình luận đã bị tắt

Ngày cuối cùng

TP – Năm mươi nhân viên CIA Sài Gòn gần như kiệt sức sau hơn một tuần làm việc 14 giờ mỗi ngày. Đêm 28/4, họ ngủ mê mệt, không ai nghĩ đó lại là đêm cuối cùng của cơ quan tình báo này tại Sài Gòn.

Xem chi tiết…

Giờ phút định mệnh – Kỳ XV

Tháng Tư 11, 2011 Bình luận đã bị tắt

Bức công hàm cuối cùng của chính quyền Sài Gòn

TP – Chiều 28/4/1975, lúc 16 giờ 45, buổi lễ bàn giao giữa ông Trần Văn Hương và ông Dương Văn Minh diễn ra tại Dinh Độc Lập.

Khi ông Dương Văn Minh bắt đầu đọc diễn văn nhậm chức, giông sét đánh ầm ầm. Một trận mưa to chưa từng có ập xuống Sài Gòn, quan khách không nghe được ông Minh nói gì. Nhiều người cho đó là điểm gở cho tân chính phủ.

Tướng Nguyễn Cao Kỳ (đội mũ lưỡi trai) là người di tản đầu tiên lên tàu sân bay Midway

Sáng 28/4, lúc 8 giờ 25 phút, Mỹ đáp lại lời nhắn với Liên Xô (qua Đại sứ Liên Xô tại Washington) rằng, như phúc đáp của phía Liên Xô, phía Mỹ đang tiến hành cuộc di tản với tin tưởng là điều kiện sẽ tiếp tục thuận lợi.

Tổng thống Ford  hứa “cuộc di tản không bị cản trở trong bao lâu thì cũng thời gian đó Mỹ cũng sẽ không hành động gì khiến tình hình trầm trọng hơn”.

Kissinger nói rằng, đến ngày 27/4, Mỹ vẫn đầy hy vọng là Hà Nội không định đi tới một chiến thắng hoàn toàn quân sự mà còn muốn điều đình với ông Dương Văn Minh. Tại Sài Gòn, Đại sứ Martin cũng không mấy lo về phía Hà Nội.

Ngoài vợ một nhân viên CIA cao cấp, Đại sứ Martin đã sắp xếp để đưa 2.000 người gồm khá nhiều phi công VNCH và gia đình họ đi di tản sớm sang căn cứ Utapao ở Thái Lan, với mục đích là giảm thiểu khả năng trả thù và đụng độ với lực lượng Mỹ.

Ông Martin cho rằng phi công là những phần tử uất hận nhất nên có thể phản ứng điên rồ, ngăn chặn cuộc di tản cuối cùng của người Mỹ.

Ông Minh có hai áp lực lớn lúc đó: Quân đội VNCH dù rất xơ xác nhưng vẫn còn điều kiện để phản ứng điên rồ nếu họ thấy mình bị “phản bội”; mặt khác phải chứng minh được với “phía bên kia” đây là một chính phủ không đeo đuổi chiến tranh, mà mong được thương thuyết hòa bình.

Việc nghiêng hẳn sang bắt tay với quân giải phóng của ông Minh khiến đồn đại về một cuộc đảo chính râm ran khắp nơi, đặc biệt từ phía không quân thuộc ảnh hưởng của tướng Nguyễn Cao Kỳ. Lực lượng không quân ở Tân Sơn Nhất đóng cổng từ chối nhận lệnh điều động của tổng thống Minh.

Trước đó, tối 27/4/1975 tướng Kỳ điện thoại cho tùy viên quân sự của ông Minh để yêu cầu gặp ông Minh, bàn về sự hợp tác trong cuộc đối đầu với sự tiến quân của Bắc Việt, nhưng được trả lời rằng ông Minh đang bận họp, sẽ gọi điện lại. Sáng 28/4, vì quá muộn để có thể làm gì, tướng Kỳ không gặp ông Minh cho đến lúc ông ta lên trực thăng bay ra tàu sân bay của Hạm đội 7.

Vừa rời lễ nhậm chức về nhà riêng, ông Minh  nghe  những tiếng nổ làm rung chuyển cả Sài Gòn. Tất cả đều nghĩ phe tướng Kỳ đảo chính. Sau đó mới hay, tiếng nổ là do máy bay Bắc Việt oanh kích xuống phi trường Tân Sơn Nhất bằng năm chiếc phi cơ A-37 mà quân giải phóng mới chiếm được, xuất phát từ Nha Trang tham gia cuộc tấn công dưới sự dẫn đường của phi công Nguyễn Thành Trung. Điều này khiến cho giới quân sự Sài Gòn và Mỹ kinh ngạc. Ông Minh vẫn không liên lạc với không quân ở Tân Sơn Nhất.

Tối 28/4 (sáng 27/4 giờ Washington), việc đầu tiên ông Minh làm trên cương vị Tổng thống là viết một công hàm gửi Đại sứ Martin (văn bản được chuyển giao sáng 29/4). Lúc này có lẽ ông Minh biết chuyện thương thuyết với quân giải phóng là vô vọng. Các tin tức từ Đại sứ Pháp Mérillon không có sự tiến triển nào, vai trò trung gian của Pháp trở nên vô vọng.

Ông Minh yêu cầu: “Tất cả người Mỹ rời khỏi Nam Việt Nam trong vòng 24 giờ kể từ ngày  29/4 (tức 28/4 giờ Washington)“. Công hàm này có tính lịch sử vì nó là văn kiện cuối cùng của Chính quyền Sài Gòn gửi Nhà Trắng, và thực sự cấp cho người Mỹ một quota “danh chính ngôn thuận” để rời Nam Việt Nam. Kissinger nói rằng  “nó thực sự giúp cho chúng tôi thoát ra mà không bị chỉ trích là Mỹ bỏ rơi đồng minh, vì nó trùng hợp với lịch trình rút lui của Mỹ”.

Đêm 28/4, Polgar điện cho Shackley báo cáo về lễ nhậm chức của tướng Minh kèm nhận định của  CIA Sài Gòn. Shackley vẫn lạc quan về việc có được hai tuần trong thời gian ông Dương Văn Minh đàm phán với Bắc Việt, nhưng cũng chỉ rõ  khả năng Hà Nội pháo kích vào Tân Sơn Nhất là “bất cứ lúc nào”.

Vẫn chưa biết chắc chắn về mục tiêu của Hà Nội nên tướng Homer Smith, trưởng văn phòng tùy viên quân sự Mỹ tại Sài Gòn chưa ra quyết định đình chỉ các chuyến bay di tản người Mỹ  bằng phi cơ C-130. Shackley khuyên Polgar nên di tản các nhân viên CIA người Việt,  sang căn cứ Năm Pon (Thái Lan) và Đài Bắc (Đài Loan), trong lúc Shackley cố gắng duy trì các máy bay C-130 cho CIA Sài Gòn sử dụng.

(Còn tiếp)

Tô Nam lược dịch

Giờ phút định mệnh – Kỳ XIV

Tháng Tư 11, 2011 Bình luận đã bị tắt

Kissinger dùng tiểu xảo

TP – Đối với Nhà Trắng, cuộc chiến Việt Nam thực chất kết thúc từ ngày 23/4/1975 (ngày 24/4 giờ Sài Gòn), khi Tổng thống Ford trước hàng ngàn sinh viên đại học Tulane (New Orleans) chậm rãi dằn từng tiếng: “Đối với Mỹ, chiến tranh Việt Nam kết thúc rồi”.

Trong lúc chờ Liên Xô hồi đáp đề nghị của Mỹ từ ngày 20/4 về việc “nhắn Hà Nội ngừng khoảng hai tuần cho người Mỹ di tản“, ngày 25/4, Kissinger gửi mật điện cho Đại sứ Martin “Liên Xô cho biết Hà Nội sẽ không làm trở ngại cuộc di tản”.

Lúc đó, Đại sứ Martin là người duy nhất ở Sài Gòn nhận được thông tin này, nên ông tiếp tục sinh hoạt hết sức bình tĩnh để không đổ thêm dầu vào lửa.

Ông Martin nhất định không đóng gói đồ đạc, sách vở, hồ sơ, hình ảnh… dù Polgar đóng gói xong đồ đạc và dành mọi thời gian còn lại để tiếp xúc với Trưởng đoàn Hungary ở Trại Davis  với hy vọng có tín hiệu đàm phán nào đó cho tướng Minh và nội các mới, ngõ hầu ngăn hoặc làm chậm lại  cuộc tấn  công quân sự của Bắc Việt vào Sài Gòn.

Chủ nhật ngày 27/4/1975, tướng Dương Văn Minh được lưỡng viện VNCH bầu làm tổng thống, song vấn đề xúc tiến “đàm phán ngừng bắn với Bắc Việt” vẫn còn nguyên, lại thêm việc tướng Kỳ kiên quyết chống đối ông Minh.

Nhưng Kissinger lo sợ rằng một “nỗ lực song song có thể làm trật đường ray” viễn cảnh sáng sủa mà ông mong đợi từ Liên Xô, nên ông ta quở mắng Polgar, đồng thời chuyển thông điệp lạc quan đến Đại sứ Martin rằng “Tôi nghĩ Dương Văn Minh là một điều kiện tốt để đàm phán lập một chính phủ ba bên, và tôi đang chờ tin tốt từ Liên Xô”.

Viễn cảnh thành công của cuộc di tản bị mờ đi bởi một tin xấu: Bắc Việt đã cắt đứt đường bộ từ Sài Gòn xuống Vũng Tàu và Thái Lan từ chối cho Mỹ sử dụng căn cứ Năm Phon là nơi tập kết người di tản.

Nửa đêm 27/4, trong tiếng pháo kích, Martin vẫn ngoan cố gửi điện cho Kissinger khẳng định “sẽ không có cuộc tổng tấn công trực tiếp của Bắc Việt vào Sài Gòn”.

Polgar buộc phải cử chuyên viên phân tích của CIA Sài Gòn là Frank Snepp cùng hai người nữa đi khảo sát thực địa về vành đai tử thủ Sài Gòn của quân lực VNCH để thuyết phục Martin. Kết quả cho thấy, tình hình rất nguy ngập vì quân đội Bắc Việt đã áp sát Sài Gòn và giao tranh đang rất ác liệt ở Biên Hòa.

Trong lúc đó, Đại sứ Martin và Đô đốc Gayler (Tư lệnh quân Mỹ ở Thái Bình Dương) vẫn chưa thống nhất được các bước cụ thể  của kế hoạch di tản mà tòa đại sứ xây dựng. Quân đội Mỹ sẵn sàng cho bước cuối cùng để di tản, nhưng ông Martin sợ điều đó tạo hoảng loạn cho Sài Gòn, nên ông không cho chặt một cây me cổ thụ trong sân tòa đại sứ để làm bãi đáp cho trực thăng.

Một tin tốt đến với Sài Gòn, Mỹ được người Thái cho sử dụng căn cứ Năm Phon (rất gần đảo Phú Quốc) để thực hiện cuộc di tản. Đô đốc Gayler chỉ còn lo việc Tân Sơn Nhất liệu sử dụng được mấy ngày nữa, vì đường băng tại đây vừa bị đánh bom, và theo tin tình báo nó đang nằm trong tầm pháo của Bắc Việt.

Những chuyến di tản khẩn trương bằng máy bay C-130  từ Tân Sơn Nhất vẫn tiếp tục trong ngày 28/4, trong đó có chuyến bay chở cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, tướng Nguyễn Khắc Bình Tư lệnh Cảnh sát cùng các quan chức cảnh sát và gia đình họ.

Polgar điện về tổng hành dinh CIA rằng, vẫn chưa thấy ý định cụ thể của ông Minh, song ông ta ghi chú rằng “có thể có sự đối thoại theo một điều khoản của Hiệp định Paris” và phỏng đoán việc này nếu có thì  sẽ diễn ra  tại thủ đô Paris. Polgar gần như kiệt sức.

Hồi 17 giờ ngày 26/4/1975, tiếng súng đầu tiên của Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn đã nổ ở hướng đông. Theo kế hoạch, sáng 27/4, quân giải phóng đồng loạt các hướng đánh vào vùng ven Sài Gòn. Riêng hướng tây nam phải cắt đứt được đường số 4 trên nhiều đoạn từ cầu Bến Lức đến phà Mỹ Thuận. Từ ngày 29/4 sẽ đồng loạt đánh vào nội thành.

(Nguồn: Đại thắng mùa xuân của Đại tướng Văn Tiến Dũng)

(Còn nữa)

Tô Nam lược dịch

Giờ phút định mệnh – Kỳ XIII

Tháng Tư 11, 2011 Bình luận đã bị tắt

Kết cục là quyết định quân sự

TP – Ngay sau khi tướng Dương Văn Minh thay ông Hương làm Tổng thống, Polgar đề nghị Sài Gòn tiến hành cuộc tiếp xúc với đại tá Võ Đông Giang, đại diện phái đoàn Bắc Việt trong Ủy ban Quân sự Bốn bên tại Trại Davis trong sân bay Tân Sơn Nhất, để kiểm tra phản ứng của Bắc Việt trước việc thay đổi này.

Người dân lo sợ đòi được di tản trước sứ quán Mỹ cuối tháng 4/1975

Song chỉ nhận lại thông tin rằng, hy vọng có thể có được bình luận nào đó về việc này sau đó nhiều giờ. Cùng hôm đó, Polgar thông báo cho Đại sứ Martin biết rằng một đài phát thanh của quân giải phóng đã loan tin ông Martin kêu gọi cho tàu hải quân Mỹ vào vùng biển nam Việt Nam, nhưng không đề cập gì về cuộc di tản của tòa đại sứ Mỹ.

CIA Sài Gòn vẫn hy vọng vào một nỗ lực đàm phán ngừng bắn mới có thể bắt đầu, và ông Dương Văn Minh vẫn cố gắng tìm cách gửi một đoàn đàm phán ra Hà Nội.

Còn tại Sài Gòn, thậm chí ông Minh tìm cách liên lạc để đàm phán ngừng bắn với đại diện Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam của luật sư Nguyễn Hữu Thọ.

“Nhưng tất cả các động thái không làm thay đổi được tình thế là một quyết định quân sự của Bắc Việt đối với Sài Gòn”-

Polgar cay đắng khi tin tức tình báo đổ về cho thấy, CIA chỉ còn cơ hội cuối cùng với viễn cảnh là tổ chức cho nhanh một cuộc di tản hoàn tất “trong vòng 48 giờ” mà thôi.

Polgar được Giám đốc CIA Colby ủng hộ (ông Martin phản đối di tản sớm, nên Polgar lúc này có một vài liên lạc về Washington không thông qua Martin), và CIA Sài Gòn lúc này được tổng hành dinh yêu cầu riêng tập trung vào nắm tin về sự tấn công của Bắc Việt quanh Sài Gòn, bên cạnh việc xúc tiến cho cuộc đàm phán của Dương Văn Minh với Bắc Việt, để quyết định thời điểm bắt đầu cho một cuộc di tản bằng trực thăng khỏi Sài Gòn.

Đại sứ Graham Martin lại lo nghĩ nhất về tình huống hỗn loạn ở Sài Gòn có thể làm đổ vỡ việc di tản 6.000 người Mỹ, nên ông cố câu giờ. Sự hoảng loạn có thể trở thành “kẻ giết người“  hoặc “kẻ phá đổ và làm tê liệt mọi việc,  vào giờ chót. Kế hoạch để di tản của Mỹ mang mật hiệu Talon Vise với bốn lựa chọn.

Lựa chọn thứ nhất là di tản bằng những máy bay lớn từ phi trường Tân Sơn Nhất, yểm trợ bằng quân lực Mỹ. Nhưng, mang quân đội Mỹ vào Sài Gòn lại là sai lầm lớn.

“Nguy hiểm là quân đội Bắc Việt sẽ pháo kích các sân bay. Đặc biệt, khả năng ác liệt khác là quân đội VNCH sẽ quay súng bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất, vào Tân Cảng, hay bắn vào chính bãi đáp trực thăng trên nóc tòa đại sứ Mỹ nữa, nếu chỉ những người Mỹ được di tản – Ông Martin viết trong mật điện rất dài gửi Kissinger.

Tại Cần Thơ, trực thăng Mỹ phải bay trong đêm tới một khu chung cư của người Mỹ để bốc họ đi, vì viên sĩ quan chỉ huy sân bay quân sự ở đây nói với ông Lãnh sự Mỹ rằng không thể bảo đảm được kỷ luật của quân lính dưới quyền mình nếu người Mỹ cố di tản bất cứ ai ra khỏi phi cảng.

Và khi Tòa Lãnh sự Mỹ di tản, chỉ có đủ máy bay để chở người Mỹ, những lính gác Mỹ phải chĩa súng vào số nhân viên để họ khỏi tràn ngập máy bay.

Trước đó, kể từ ngày 22/4, Trưởng phân ban Đông Á của CIA Shackley phải hoạt động gần như kiệt sức ở Thái Lan để thu xếp một cầu hàng không di tản đợt đầu những người nằm trong  danh sách 3.000 người Việt cộng tác với CIA Sài Gòn mà Polgar xây dựng.

Hầu hết di tản từ Sài Gòn, một số tập trung về đảo Phú Quốc, trước khi được  đưa sang căn cứ quân sự của Mỹ ở Thái Lan bằng máy bay.

Mỹ đã tập hợp một đoàn hạm đội ở vùng Biển Đông cho kế hoạch di tản. Đoàn này gồm bốn hàng không mẫu hạm: Hancock, Coral Sea, Midway và Enterprise. Một đơn vị 2.200 lính thủy quân lục chiến được huy động tới bốn mẫu hạm này và những tàu hộ tống khác.

Mãi tới ngày 25/4, trước thời điểm Sài Gòn sụp đổ chỉ năm ngày, Đại sứ Martin mới nhận được ủy quyền từ Nhà Trắng cho phép tòa đại sứ Mỹ cấp  thủ tục nhập cảnh tạm nới rộng cho người Việt di tản tổng cộng 13 vạn người, tức  thêm khoảng tám vạn người thuộc đối tượng là  bà con, thân nhân của công dân Mỹ  cộng với năm vạn  người Việt có “mức rủi ro cao độ” được Wasshington đồng ý từ ngày 19/4.

Kissinger sau đó nói: “Tin rằng, ngay trước mắt, sự hoảng hốt ở Sài Gòn còn đáng lo ngại hơn  kế hoạch tấn công của Hà Nội, Martin  đã cố gắng để cho cuộc di tản chậm hơn ý muốn của Tổng thống Ford và tôi – kẻ diều hâu trong chính phủ – cho là thích hợp”.

(Còn nữa).

Tô Nam lược dịch

Giờ phút định mệnh – Kỳ XII

Tháng Tư 11, 2011 Bình luận đã bị tắt

Kịch bản cứu Nam Việt Nam của Đại sứ Pháp Mérillon

TP – Kế hoạch di tản người Mỹ khởi động từ ngày 21/4/1975. Liên tục suốt ngày đêm, máy bay C-141 và C-130 chở những người không quan trọng đi trước.

Tướng Dương Văn Minh lúc quân giải phóng vào Dinh Độc Lập

Nhưng ngày 23/4, nguồn tin của bộ phận CIA ở Vùng 3 chiến thuật đóng ở Biên Hòa báo về cho Polgar biết Tỉnh trưởng Lưu Yêm biển thủ tiền từ ngân khố và đưa gia đình chuồn ra nước ngoài. Vì muốn tránh sự hoảng loạn của Sài Gòn có thể dẫn đến thảm họa quân Mỹ đụng độ với binh lính VNCH, Đại sứ Martin phải ra sức làm chậm lại cuộc di tản.

Trong khi đó, Đại sứ Martin vẫn liên tục điện về cho Kissinger để yêu cầu Nhà Trắng nhờ Liên Xô đám phán với Bắc Việt ngừng bắn hai tuần để Mỹ thực hiện kế hoạch di tản quy mô, sau khi Thiệu từ chức.

Nhưng Kissinger  chưa trả lời mà lại lệnh cho Polgar và Phái bộ Mỹ làm mọi cách để hỗ trợ cho nội các của ông già Trần Văn Hương, lại vừa tập trung thực hiện nhanh chóng cuộc di tản.

Polgar phản ứng lệnh này là “chẳng gì có thể hỗ trợ được ông Hương khi mà Mỹ không còn B-52 đem ra bầu trời Hà Nội”.

Theo Polgar, tất cả tướng lĩnh và nội các VNCH lúc này chẳng ai nghe lời ông già Hương nữa. Và Đại sứ Pháp Mérillon thì vận động được hầu hết tướng lĩnh  ủng hộ tướng Big Minh, tức Dương Văn Minh lên làm Tổng thống VNCH. Thậm chí, lúc này còn có tới bốn tướng của Pháp có mặt tại Sài Gòn với tư cách cá nhân để giúp quân đội VNCH lập kế hoạch phòng thủ Sài Gòn.

Trong tình thế này, muốn thực hiện cuộc di tản an toàn, tòa đại sứ Mỹ phải duy trì sự tồn tại chế độ Sài Gòn càng lâu càng tốt. Vì vậy, Đại sứ Martin đành chấp nhận quan điểm của Đại sứ Pháp Mérillon là ủng hộ Dương Văn Minh thay thế Trần Văn Hương. Thật sự thì ông Minh chẳng có ảo tưởng gì về cái ghế tổng thống VNCH- lúc này chẳng còn là quyền lực và địa vị. Dù vậy vẫn còn một tia hy vọng góp phần đưa Nam Việt Nam đến một kết thúc bớt được những đổ máu vô ích.

Đại sứ Pháp Mérillon đến gặp ông Minh tại nhà riêng. Pháp là quốc gia duy nhất lúc đó có tòa đại sứ đồng thời tại Sài Gòn và Hà Nội, một thế ngoại giao rất thuận lợi để đóng vai trò trung gian trong kết thúc chiến tranh Việt Nam. Đại sứ Pháp Mérillon, tin rằng Paris có thể đóng vai trò trung gian với Hà Nội để thương thuyết một giải pháp chính trị nếu ông Minh làm Tổng thống VNCH.

Thời gian còn lại không còn nhiều nhưng ông Hương vẫn không chịu rời khỏi cái ghế quyền tổng thống của mình bất kể áp lực từ các sứ quán Pháp và Mỹ. Bám vào lập luận mình thay Thiệu đúng theo hiến pháp, ông Hương buộc những người muốn thay ông cũng phải thông qua hiến pháp và quốc hội.

Là một người ngấm ngầm say mê quyền lực, ông Hương vẫn mơ làm tổng thống và tự coi minh là một De Gaulle-vị cứu tinh của Pháp trong thế chiến thứ hai- mà ông rất ngưỡng mộ. Ông Hương thì ảo tưởng rằng sứ mạng của mình là cứu Sài Gòn trước “cuộc tấn công của Bắc Việt”.

Đại sứ Pháp Mérillon và Đại sứ Mỹ Martin tăng cường áp lực với ông Hương nhằm đưa ông Minh vào chức vụ tổng thống với hy vọng “được Hà Nội chấp nhận đối thoại”. Để giành tối đa thời gian ít ỏi còn lại, Martin và Mérillon gặp trực tiếp ông Hương và thuyết phục ông rút lui nhường quyền lãnh đạo cho ông Minh. Nhưng ông Hương nhất định từ chối, viện lẽ chính ông cũng có thể đứng ra thương thuyết với cộng sản và chắc gì ông Minh được cộng sản chấp nhận.

Thế là Martin và Mérillon quay sang vận động Quốc hội. Lập tức một phiên họp lưỡng viện được triệu tập vào ngày 26/4/1975, có mặt 136 dân biểu nghị sĩ trên tổng số 219 (vì nhiều dân biểu đã vội di tản ra nước ngoài), để nghe tình hình quân sự và quyết định người thay thế Trần Văn Hương.

Tướng Trần Văn Đôn với tư cách Tổng trưởng Quốc phòng, tướng Cao Văn Viên – Tổng Tham mưu trưởng Quân đội VNCH, tướng Nguyễn Khắc Bình – Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia, tướng Nguyễn Văn Minh – Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, thuyết trình cho các nghị sĩ và dân biểu nghe tình hình quân sự tuyệt vọng của Sài Gòn với những dẫn chứng cụ thể trên bản đồ.

Quân lực VNCH chỉ có sáu vạn lính để bảo vệ Sài Gòn, trong khi quân đội Bắc Việt tăng lên nhanh chóng từng giờ. Cuối cùng lưỡng viện biểu quyết phế truất  ông già 71 tuổi Trần Văn Hương (chỉ sau bốn ngày rưỡi nắm quyền)  và  bầu  tướng Dương Văn Minh lên thay.

(còn nữa)

Tô Nam Lược dịch

Giờ phút định mệnh – Kỳ XI

Tháng Tư 11, 2011 Bình luận đã bị tắt

Điều lo sợ nhất của Martin

TP – Mười ngày cuối tháng 4/1975, trong lúc Sài Gòn hoang mang về cuộc di tản đại quy mô thì cả Kissinger và những người Mỹ ở Sài Gòn vẫn miễn cưỡng chấp nhận tin tưởng vào người Mỹ sẽ ra tay định đoạt số phận những người Việt cộng tác với Mỹ.

Cảnh chen chúc nhau lên tàu di tản

Kissinger điện cho Polgar vào ngày 19/4 yêu cầu trợ giúp thân nhân của các nhân viên thuộc cả hai Hội đồng an ninh quốc gia. Polgar tuân theo nên cử Chip Schofield-một chuyên gia thông thạo cả tiếng Việt và tiếng Quảng Đông, tới Chợ Lớn để tìm Sino- con rể người Việt của một quan chức hội đồng an ninh quốc gia tên là Ken Quinn.

Schofield rất lo lắng cho gia đình người vợ Việt của ông ta, do không nhận được sự bảo đảm từ CIA Sài Gòn, nên ông ta yêu cầu Polgar gửi đến cho họ máy bay vận tải C-130. Đó là yêu cầu chính đáng nên Polgar phải đồng ý. Những chuyến bay đầu tiên đến và toàn bộ trung tâm tùy viên quân sự không chính thức đã di tản sang căn cứ không quân Clark ở Philippines.

Theo ước tính của Lầu Năm Góc, sẽ phải cần tới ba sư đoàn lính Mỹ để hỗ trợ cho cuộc di tản của người Mỹ và người Việt làm cho Mỹ, nếu tình hình Sài Gòn tồi tệ hơn dự đoán.

Trước đó, ngày 17/4, Đại sứ Martin nhận bức điện tối mật từ  Kissinger, trong đó có đoạn “Tôi vừa họp xong để duyệt xét tình hình VNCH. Ông Đại sứ phải biết rằng Ủy ban Đặc biệt Washington hầu như không có ai ủng hộ việc di tản người Việt và việc dùng quân lực Mỹ yểm trợ việc di tản của bất cứ người Việt nào. Quan điểm chung của các giới quân sự, Bộ Quốc phòng và CIA là phải rút ra cho nhanh và ngay lập tức”. Lệnh khẩn cấp ấy khiến Martin phản ứng.

Martin báo động cho Kissinger là nếu chỉ cho di tản người Mỹ thôi thì rất nguy hiểm. Nhưng Kissinger trả lời: “Mặc dù đồng ý với lo ngại của Đại sứ, điều hết sức cần thiết là Đại sứ phải xúc tiến cho nhanh việc di tản những công dân Mỹ khỏi Nam Việt Nam. Làm sao để vào ngày 22/4, tất cả số công dân Mỹ ở Nam Việt Nam chỉ còn lại cao nhất là 2.000 người mà thôi”.

Có nghĩa là trong vòng chỉ năm ngày, Martin phải di tản khoảng 4.000 người Mỹ. Polgar gửi CIA báo cáo về sự di chuyển nhanh chóng của quân đội Bắc Việt đe dọa trực tiếp Sài Gòn, trong khi quân đội VNCH không còn cơ  tồn tại.

Ngày 19/4, lúc Martin  đang cuống lên thì lại nhận thêm mật lệnh mới từ Kissinger rằng, Tổng thống Ford đã chấp thuận yêu cầu phải giảm số người Mỹ xuống chỉ còn 1.250  vào ngày 22/4 (đây là số lượng  được tính toán để trực thăng có thể bốc đi trong vòng một ngày).

Trong khi Polgar lên danh sách và yêu cầu phân ban CIA Đông Á thu xếp một cuộc di tản cho 3.000 người Việt cộng tác với CIA bằng trực thăng thì Shackley, Trưởng phân ban Đông Á của CIA chỉ thông báo  lệnh của Washington là phải giảm số người Mỹ còn lại ở Sài Gòn tối đa là 1.100 vì các chuyến bay thương mại đến Sài Gòn đã bị ngừng.

Tin tức tình báo của CIA cho thấy dấu hiệu  về việc sân bay Tân Sơn Nhất có thể đã nằm trong tầm pháo kích của quân đội Bắc Việt, vì vậy Washington thay thế máy bay thương mại bằng trực thăng để đưa người Mỹ di tản. Trực thăng sẽ đậu xuống tòa Đại sứ Mỹ và những nóc các tòa nhà cao tầng ở trung tâm Sài Gòn.

Nhà Trắng đồng ý hỗ trợ hậu cần cho việc di tản năm vạn người Việt. Số người này phải thuộc diện có rủi ro cao độ như Bộ Ngoại giao Mỹ vạch rõ: “Những nhân viên làm việc cho Mỹ và gia đình của họ; thân nhân của công dân Mỹ; viên chức cao cấp trong chính quyền VNCH”.

Trước đó, Quốc hội Mỹ không đồng ý chi tiền cho cho cuộc di tản 174.000 người Việt, vì “sẽ phải cần đến một lực lượng quân đội Mỹ rất lớn trong một cuộc chiến khá dài”. Điều này cũng chính là nỗi lo sợ nhất của Đại sứ Martin.

Thời điểm ấy có rất nhiều kế hoạch điên rồ được đưa ra khiến Martin phải cố ngăn chặn. Để trợ giúp cho cuộc di tản yên ổn, Mỹ có bốn dự định: thứ nhất, mang thủy quân lục chiến vào Sài Gòn để di tản 6.000 người Mỹ và một số ít người Việt; hai, tác động với phía VNCH để tránh tình trạng hỗn loạn vào giờ chót; ba, nhờ cậy Liên Xô dàn xếp với Hà Nội để không cản trở việc Mỹ di tản; bốn, sắp xếp một giải pháp chính trị để có một thời gian chuyển tiếp.

Đó là kịch bản một thảm họa xấu nhất vào giờ chót mà Martin đã làm mọi cách để tránh.

(Còn nữa)

Tô Nam lược dịch

Giờ phút định mệnh – Kỳ X

Tháng Tư 11, 2011 Bình luận đã bị tắt

Âm mưu đi vòng qua người Hungary

Bộ Chỉ huy Chiến dịch tổng công kích và nổi dậy giải phóng Sài Gòn đã đề nghị Bộ Chính trị đặt tên chiến dịch là “Chiến dịch Hồ Chí Minh” và 19 giờ ngày 14/4/1975, bằng bức điện số 37/TK, Bộ Chính trị đã “Đồng ý chiến dịch Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Ngày 22/4/1975, Bộ chỉ huy Chiến dịch duyệt lại lần cuối cùng kế hoạch chính thức của Chiến dịch Hồ Chí Minh. Bản đồ quyết tâm chiến dịch được trải rộng ra trên bàn. Tư lệnh Chiến dịch Văn Tiến Dũng và Chính ủy Phạm Hùng cùng ký vào bản đồ quyết tâm đó.

(Nguồn: Đại thắng Mùa xuân của Đại tướng Văn Tiến Dũng)

Mặc dù dấu hiệu việc Hà Nội sắp đập tan chế độ Sài Gòn bằng sức mạnh quân sự đến tay Polgar rất nhiều, Polgar vẫn không từ bỏ hy vọng về một cuộc đàm phán ngừng bắn.

Ngày 17/4, Polgar phản ứng mạnh đối với tuyên bố chính thức của Nhà Trắng rằng cơ quan ngoại giao quá bận rộn không thể đàm phán một giải pháp chính trị và ngừng bắn ở Nam Việt Nam.

Polgar tìm được sự ủng hộ của Giám đốc CIA Colby về một cuộc vận động chính sách ngoại giao ở Mỹ để tiếp tục đàm phán với Bắc Việt trong tuyệt vọng.

Polgar khăng khăng nài nỉ rằng “sự thất bại của Mỹ đã dẫn sang bước thực hiện chiến lược ngoại giao, và chỉ nhờ ngoại giao mới có thể ngăn cản hoặc trì hoãn được một kết cục bi thảm sẽ ghim lên nước Mỹ về trách nhiệm chống một cuộc đổ máu không cần thiết”.

Ngày 18/4, Polgar lại phản ứng với trả lời gây sốc của ông Philip Habib, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, trên báo chí Mỹ rằng Nhà Trắng lo lắng cho những người Việt làm việc cho Mỹ ở VNCH, và có kế hoạch di tản nhân viên người địa phương.

Nếu tuyên bố này là đúng và lan tới Sài Gòn thì đúng là “một đòn trời giáng” gây ra cơn hoảng loạn mới ở Nam Việt Nam. Đại sứ Martin có cớ lén lút lên kế hoạch di tản cho 350 nhà báo, và tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn An ninh của Thiệu, nói với Martin một cách thân mật rằng chính quyền VNCH sẽ không phản đối. CIA Sài Gòn tiếp tục giả vờ như họ sẽ di tản những người bản xứ cùng thân nhân.

Polgar lúc ấy tin rằng, tùy thuộc hoàn cảnh, Nhà Trắng sẽ khuấy lên một sự hoảng loạn nếu cho hoặc không cho di tản người Việt. Nhưng bất kể trường hợp nào, Sứ quán Mỹ cũng đã tính toán với Cơ quan Nhập cư Mỹ là nhân viên làm cho Mỹ cùng thân nhân họ có thể được di tản, và sẽ mất thời gian nhiều giờ.

Với cách này thì cộng đồng Mỹ kiều ở Nam Việt Nam được di tản sẽ bị cắt giảm, bởi mỗi ngày đang có hàng trăm người xin thẻ cư trú và hệ thống ở Sứ quán Mỹ đang vận hành êm dịu.

Polgar không có lý do gì để xem xét việc di tản cho nhân viên người Việt ở văn phòng CIA Sài Gòn với các nhà báo. Báo cáo gửi về tổng hành dinh CIA, Polgar nhận định, với sức tấn công hiện nay, Bắc Việt có thể vào đến Sài Gòn vượt trước dự tính của Washington một vài tuần, nên cần di tản Phái bộ Mỹ nhanh hơn.

Đồng thời Polgar (dù không được độc lập cung cấp chi tiết) muốn tổng hành dinh CIA biết rằng “Đại sứ Mỹ Martin và Đại sứ Pháp Merillon đã có sáng kiến để Tổng thống Thiệu tự nguyện từ chức”.

Cùng ngày 18/4, đại tá Janos Toth, thành viên đoàn quân sự Hungary đóng tại Trại Davis đến gặp Polgar. Toth là đại diện cho trưởng đoàn Hungary tại Ủy ban Liên hiệp Quân sự Quốc tế giám sát thực thi Hiệp định Paris nên thường làm việc với phái đoàn quân sự Bắc Việt trong sân bay Tân Sơn Nhất.

Toth ám chỉ với Polgar rằng việc kết thúc cuộc chiến ở Nam Việt Nam sẽ sớm hơn độ một tuần và, theo phân tích của các sĩ quan Hungary dựa trên “tư duy logic của những người xã hội chủ nghĩa” thì Bắc Việt chắc phải thu hẹp sức tấn công hơn là mở rộng tổng công kích vào Sài Gòn.
Những ngày tiếp theo, việc Polgar tiếp xúc với Toth và những người đồng hương Hungary khác được nhận thông tin từ những đồng nghiệp từ Hà Nội của họ, đã dẫn ông ta đến nhiều kết luận. Đầu tiên là việc Bắc Việt thời gian qua quyết định dồn sức tấn công quân sự mà chưa cần giải pháp đàm phán. Thứ hai, Bắc Việt thực sự sẵn sàng nối lại đàm phán nếu Thiệu ra đi khỏi ghế Tổng thống VNCH.

Một chính phủ kế nhiệm sẽ làm công việc “chấm dứt chiến tranh như trong điều khoản Hiệp định Paris” và Sứ quán Mỹ sẽ được giới hạn hoạt động ngoại giao ở mức “bình thường và truyền thống”. Những người Hungary nghĩ chỉ cần một vài ngày để thiết lập kênh đối thoại theo hướng này vì Bắc Việt chân thật, không muốn làm Mỹ bẽ mặt. Nhưng Toth đã suy đoán ngờ nghệch.

Dù vậy Martin và Polgar vẫn chia sẻ quan điểm theo đuổi một cuộc đàm phán ngừng bắn. Đại sứ Martin chớp thông tin mà Polgar lấy từ người Hungary với Kissinger. Mãi đến 19/4, khi Toth phản ánh rằng “khát khao giải phóng Nam Việt Nam của Hà Nội xác đáng hơn ý định của người Mỹ về đàm phán trong khuôn khổ Hiệp định”, Martin mới thất vọng.

Ông ta buộc phải đưa ra thảo luận kế hoạch đưa quân đội Mỹ vào yểm trợ cho cuộc di tản người Mỹ bằng trực thăng, và tạm quyết định sẽ thiết lập một cầu hàng không trực thăng một chiều sẽ chở ra tàu khu trục của Hải quân Mỹ khoảng 1.600 người; cầu hàng không trực thăng hai chiều sẽ chở đi 3.200 người.

Nhưng, để thực hiện được, Mỹ phải đưa vào Sài Gòn một sư đoàn lính thủy đánh bộ và một sư đoàn không quân thuộc Hải quân để hỗ trợ di tản. Martin dự kiến thời gian thực hiện cuộc di tản này là trong ba tuần nữa.

Đồng thời, để an toàn cho cuộc di tản, Martin cho Polgar dùng đường điện thoại riêng của Đại sứ để báo cáo kế hoạch này với Kissinger, để yêu cầu Kissinger liên lạc với Liên Xô nhờ ra tín hiệu với Bắc Việt để họ dành vài ngày cho người Mỹ di tản.

Nhưng Kissinger điện trả lời là “không thể” dù sáng đó Kissinger có một cuộc liên lạc với Liên Xô

TP – Nhà Trắng úp mở việc  thảo luận về “tình huống đặc biệt cần thiết” với Liên Xô, đồng nghĩa với  việc đánh tiếng cho ông Thiệu phải từ chức.

Kissinger (phải) và Đại sứ Bunker tháng 4/1973 (Ảnh do Polgar chụp)

Kissinger điện mật cho Martin nói rằng, Tổng Bí thư Liên Xô Leonid Brezhnev nhắn là “Hà Nội đã tìm được mục tiêu chính trị cuối cùng nên không quan tâm đến việc làm bẽ mặt Mỹ nữa”.

Đến nước này thì Thiệu phải ra đi thôi. Nhưng hai ngày 20 và 21/4 ở Sài Gòn lại rơi vào  thứ Bảy và Chủ nhật nên Martin rất khổ để gặp được Thiệu.

Ngày 21/4, tại Sài Gòn, Martin bắn tiếng cho Thiệu rằng nên từ chức, với cách nói như đây chỉ là theo ý riêng cá nhân của ông ta. Martin cho Thiệu xem bản đồ của CIA về tình hình rất bi đát của VNCH để thuyết phục Thiệu.

Dàn xếp vừa xong, Martin lại nhận được mật điện rất lạ từ Kissinger, với ý muốn trì hoãn việc Thiệu từ chức. Nhưng ông Martin không chịu, lờ đi không thi hành.

Sáng 21/4, Polgar lại tiếp xúc với Toth, đại tá quân đội Hungary ở Trại Davis (trong sân bay Tân Sơn Nhất) với yêu cầu làm rõ những điều kiện của phía Bắc Việt với Mỹ để cuộc đàm phán ngừng bắn được bắt đầu. Toth bảo Polgar, việc đó ông ta phải hỏi Đại sứ Hungary tại Hà Nội và cam đoan nếu có thông tin sẽ báo ngay cho Polgar.

Chiều hôm đó,  Toth báo lại với Polgar là Đại sứ Hungary không trả lời được, nhưng Polgar vẫn cho rằng việc Thiệu từ chức là điều kiện tiên quyết để Bắc Việt chấp nhận đàm phán ngừng bắn.

Sau cuộc gặp Đại sứ Martin, Thiệu họp với các tướng lĩnh trong Dinh Độc Lập thông báo nội dung Martin đề cập và nói đại ý, nếu các tướng lĩnh coi Tổng thống là chướng ngại vật cho đàm phán ngừng bắn thì ông sẽ từ chức.

Chẳng ai phát biểu gì cả! Thiệu buộc phải tuyên bố từ chức để Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay. Chiều 21/4, Thiệu lên truyền hình thông báo quyết định từ chức, lòng đầy cay đắng.

Sáng 25/4, bốn ngày sau khi tiếp nhận chức Tổng thống, ông Trần Văn Hương gọi điện cho Martin phàn nàn rằng người ta nói ông chỉ điều hành một nội các Thiệu mà không có Thiệu. Ông Hương yêu cầu Đại sứ Martin dàn xếp để  Thiệu ra nước ngoài. Sau đó ông Hương tới chỗ ông Thiệu khuyên ông sớm rời khỏi Sài Gòn vì nếu không, cộng sản sẽ nói “tôi đang điều khiển một chính phủ Thiệu không có Thiệu”.

Thiệu ngập ngừng nhưng nửa tiếng sau gọi điện cho Martin nói đồng ý và nhờ Martin thu xếp chuyến ra đi lặng lẽ khỏi Nam Việt Nam. Để hợp pháp hóa chuyến đi của Thiệu, ông Hương ký văn bản đề cử Thiệu làm đặc sứ VNCH sang Đài Bắc viếng Tưởng Giới Thạch vừa qua đời ngày 5/4. Martin một mặt nhờ Polgar bố trí, một mặt điều chiếc máy bay C-118 thuộc quyền sử dụng của ông từ Bangkok bay sang Sài Gòn trong đêm 25/4.

Chiều muộn, Polgar và tướng Timmes đón Thiệu và đoàn tuỳ tùng ở nhà cựu Thủ tướng Khiêm (từng là Đại sứ VNCH tại Đài Bắc) nằm  trong Bộ Tổng tham mưu. Polgar chuẩn bị bốn chiếc công xa màu đen của Tòa Đại sứ Mỹ cắm cờ ngoại giao, chở mọi người ra sân bay Tân Sơn Nhất. Martin yêu cầu tất cả lái xe đều là người Mỹ, nên chiếc Mercedes cũ chở Thiệu do Frank Snepp, nhân viên phân tích tình báo của CIA Sài Gòn lái.

Đoàn xe chạy đến chân cầu thang máy bay, Đại sứ Martin đợi sẵn ở đó để tiễn Thiệu. 14 người, tất cả là đàn ông lặng lẽ lên máy bay. Buồn thảm và cam chịu, Thiệu vẫn cố giữ phong độ, quay lại cám ơn Đại sứ Martin dàn xếp chuyến đi. Polgar điện về tổng hành dinh CIA. “Đúng 21 giờ 20 giờ Sài Gòn, cựu Tổng thống  Thiệu, cựu Thủ tướng Khiêm di tản khỏi Nam Việt Nam”.

Polgar cam đoan Thiệu không thể mang 16 tấn vàng (thời giá lúc đó tương đương 170 triệu dollar) sang Đài Bắc trong chuyến bay đó. Số vàng này thuộc ngân khố dự trữ quốc gia của VNCH và hồi cuối tháng 3/1975, Thiệu có ý định đem nó ra thế chấp để vay tiền từ Arập Xê út để mua vũ khí cho quân đội.

Đại sứ Martin đã thu xếp giúp để chuyển vàng ra gửi ngân hàng nước ngoài cho an toàn.  Ban đầu, Martin thu xếp để chuyển 16 tấn vàng này sang gửi ở ngân hàng Thụy Sĩ có tên Bank of International Settlement  nhằm thế chấp cho khoản vay mua vũ khí từ châu Âu, nhưng tin này lộ ra nên không hãng hàng không thương mại nào nhận chở.

Martin lại  thu xếp chuyển nó sang gửi  tại ngân hàng Dự trữ Liên bang New York. Nhưng  trong khi Mỹ chưa ký được hợp đồng bảo hiểm cho chuyến bay chở số vàng này rời Nam Việt Nam thì ông Thiệu đã ra đi.

(còn nữa)

Tô Nam lược dịch

Giờ phút định mệnh – Kỳ IX

Tháng Tư 11, 2011 Bình luận đã bị tắt

Kênh đàm phán cho di tản bất thành

TP- Xuân Lộc, tỉnh lỵ ở phía đông nằm gần Sài Gòn nhất là nơi diễn ra trận chiến ác liệt nhất vào ngày 8/4, trong lúc chính trường Sài Gòn vẫn nghiêng ngả mất định hướng.

Tướng Trần Văn Trà ở Trại Davis tháng 3/1973 (ảnh trong bộ sưu tập của Polgar)

Lý do buộc Thiệu từ chức

Ngày 5/4, Thủ tướng Khiêm từ chức vì bất đồng với Thiệu và Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn được Thiệu chọn thay Khiêm là Thủ tướng.

Ngày 11/4, trận chiến Xuân Lộc vẫn ác liệt Cẩn lại cùng cố vấn mới của mình tổ chức họp báo quốc tế để tìm cách cải thiện hình ảnh của Sài Gòn với ngoại quốc.

Bộ Tổng tham mưu Quân đội VNCH thì hoàn toàn thoát ly khỏi thực tế. Đến ngày 14/4, nội các VNCH vẫn tê liệt, CIA Sài Gòn chỉ còn đối mặt với một vấn đề chính là di tản.

Về chuyện di tản, Polgar nhận ra cách nghĩ của Đại sứ Martin có sự xung đột với quan điểm của Washington. Nhận mật lệnh từ Kissinger phải thu xếp giảm số người Mỹ ở Phái bộ Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam chỉ còn 1.250 vào ngày 19/4, Martin nói với Polgar rằng giờ đây ông ta có toàn quyền quyết định thiết lập điều mình muốn để duy trì tình hình.

Martin đề xuất giảm bớt lực lượng quân Mỹ hỗ trợ di tản nhưng đòi Nhà Trắng phải miễn cưỡng chấp nhận việc lập kế hoạch di chuyển bất kỳ người Việt nào làm cho Mỹ.

Polgar cũng không muốn người Việt bị lờ đi trong cuộc di tản, đồng thời lo ngại rằng Văn phòng Tùy viên Quân sự Mỹ (DAO) với trách nhiệm lập kế hoạch di tản đang bị cuốn vào tình huống “rời đi mà hoàn toàn không quan tâm tới yêu cầu di tản của người Việt”.

Khả năng này bồi thêm sự lo lắng của Polgar về việc di tản. “Càng nghĩ đến vấn đề này tôi càng tin chắc rằng CIA buộc phải đi theo hướng có một giải pháp chính trị cho cuộc di tản, thời gian thì không còn để trì hoãn nữa”-Polgar cay đắng.

Một yếu tố củng cố thêm nhận định của Polgar là việc tiên đoán rằng Quốc hội Mỹ sẽ không chấp nhận khoản viện trợ quân sự khẩn cấp cả gói cho VNCH mà Tổng thống Ford đệ trình vào phiên họp ngày 19/4 (tức 20/4 giờ Sài Gòn).

Hà Nội có thể tăng thêm sức mạnh và lực lượng nhanh hơn nhiều dự đoán của VNCH. Một thúc ép với Polgar lúc này là vẫn phải loại bỏ Thiệu và thiết lập một chính phủ liên hiệp có thể đàm phán ngừng bắn với Bắc Việt.

Nhưng Đại sứ Martin kiên quyết chống việc người Mỹ ép buộc Thiệu từ chức, nên Polgar phải dùng tiểu xảo đưa Martin đến việc buộc phải chấp nhận một thực tế phũ phàng.

Tổng hành dinh CIA gửi lại cho Polgar đầu bài của kế hoạch di tản và Polgar trả lời rằng đang phải đối phó với một áp lực mới từ nhu cầu di tản của một số người Việt là vợ của nhân viên CIA.

Polgar cũng báo cáo ông ta đã hoàn tất kế hoạch nhằm giảm số nhân viên CIA ở Nam Việt Nam còn 270 người, trong khi Kissinger yêu cầu ông Martin phải giảm số người duy trì trong Tòa Đại sứ Mỹ còn 1.500.

Thiệu ngày ăn mừng Hiệp định ngừng bắn 19/6/1973 ở Sài Gòn (ảnh do Polgar chụp)

Ông Martin không có dấu hiệu sẽ giảm thêm người của CIA. Tuy nhiên, Martin buộc phải chấp nhận một điều là chiến thắng của Hà Nội đang đến rất gần mà ông ta vẫn chưa khuyến cáo Thiệu ra đi. Ngày 15/4, Polgar gửi cho Martin báo cáo của CIA Sài Gòn rằng Thiệu còn tại vị thì không thể có một chính phủ liên hiệp để đàm phán như người Mỹ mong muốn.

Báo cáo chốt lại với thông điệp tối hậu thư là “nếu không buộc Thiệu ra đi ngay thì người Mỹ sẽ đối mặt với thảm họa chỉ trong vòng một tuần nữa”. Nhưng thực tế thì Phan Rang vừa thất thủ, tư lệnh mới của lực lượng tử thủ ở đây, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, bị quân đội Bắc Việt bắt sống.

Và nguồn tin tình báo của Polgar ngày 16/4 cho biết, Bắc Việt sẽ tổng tấn công Sài Gòn “cho đến thắng lợi cuối cùng mà không quan tâm việc chính quyền Thiệu sụp đổ hay Nhà Trắng quyết định viện trợ quân sự khẩn cấp cho VNCH hay không”.

Tức là không có đàm phán ngừng bắn và không có chính phủ liên hiệp ba bên nào cả, mà “Bắc Việt hạ quyết tâm kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 19/5 ngay tại Sài Gòn”.

(còn nữa)
Tô Nam lược dịch

Giờ phút định mệnh – Kỳ VIII

Tháng Tư 11, 2011 Bình luận đã bị tắt

Cặp bài trùng Martin-Polgar

TP – Cuối tháng 1/1972, Polgar được CIA cử sang Sài Gòn thay Ted Shackley làm trưởng văn phòng CIA Sài Gòn.

Tham gia CIA từ khi cơ quan tình báo này thành lập (1947), sinh ra và lớn lên ở Hungary nên, ngoài tiếng mẹ đẻ, Polgar giỏi tiếng Đức và tiếng Anh. Do vậy ông ta hoạt động cho CIA chủ yếu ở Đức và Đông Âu.

Đại sứ Mỹ Graham Martin (phải)

Cuộc gặp gỡ gượng gạo

Lần đầu tiên hoạt động tại Nam Việt Nam, Polgar kế thừa mạng lưới mà Shackley dày công thiết kế trước khi được tổng hành dinh  CIA cất nhắc lên chức Trưởng phân ban Đông Á, trở thành sếp trực tiếp của Polgar. Nhờ khả năng và kinh nghiệm, Polgar  dần trở thành nhân vật quan trọng thứ hai trong tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, chỉ sau Bunker.

Tháng 4/1973, Đại sứ Bunker cùng Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu bay sang Mỹ trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức của người đứng đầu chính quyền VNCH. Polgar tháp tùng Bunker  đến San Clemente (bang California), nơi Tổng thống Mỹ Nixon tiếp Thiệu tại biệt thự riêng bên bờ biển.

Tại đây, Polgar được Ngoại trưởng Kissinger mời bữa ăn sáng thân mật. Không rõ nội dung bàn luận giữa hai người trong bữa ăn sáng ấy nhưng, ngay buổi chiều, Martin người vừa được Nixon quyết định bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam thay thế Bunker (nhưng chưa chính thức nhậm chức) đột ngột gõ cửa phòng Polgar.

Martin xa gần muốn biết nội dung trao đổi của Kissinger với Polgar. Cuộc trao đổi ngắn nhưng Polgar trực tiếp cảm nhận  phong cách “lôi cuốn và mưu lược” vẫn được đồn thổi của Martin. Polgar đảm bảo với Martin rằng, với tư cách là Trưởng văn phòng CIA ở Sài Gòn, sẽ làm việc hết mình cho ngài tân Đại sứ.

Dù cuộc gặp đầu tiên giữa hai người rất gượng gạo nhưng, sau đó, mối quan hệ giữa họ trở nên tốt đẹp hơn nhiều ở Sài Gòn và như một cặp bài trùng mãi cho đến những ngày cuối cùng trước khi Sài Gòn sụp đổ mới  nảy sinh bất đồng.

Trở lại Sài Gòn, Polgar tình cờ gặp tướng  Szuecs (thành viên trong Ủy ban Liên hiệp Quân sự Quốc tế Giám sát Hiệp định Paris) tại sân bay Tân Sơn Nhất, khi  đang được một bác sỹ quân y người Hungary  thăm khám.

Biết rõ CIA đang điều hành một bệnh viện tại Sài Gòn, vị bác sĩ này lại đang loay hoay kiếm biệt dược  trị  sốt rét cho các thành viên phái đoàn Hungary trong Trại Davis. Viên thư ký thứ nhất của đoàn Hungary đến và, qua giới thiệu, họ nhận nhau là đồng nghiệp vì đều là tình báo.

Sau đó, gần gũi hơn qua một cuộc nhậu, nhưng Polgar tạm không sử dụng “mối quan hệ Hungary” này mãi cho đến khi lâm vào tình huống cấp bách giữa tháng 4/1975.  Như vậy, vô tình, đại diện phe cộng sản trong Ủy ban Liên hiệp Quân sự Quốc tế đem đến  cho CIA Sài Gòn cơ hội tuyển mộ một nguồn tin quan trọng mà sau này Polgar coi đó “là sự tuyển mộ giật gân nhất của CIA tại Nam Việt Nam”.

Ông Đại sứ Cà phê

Tổng thống Nixon và Thiệu tại San Clemente, tháng 4/1973.Ảnh do Polgar chụp

Tháng 7/1973, thời điểm mà sau này Polgar gọi là “khoảng lặng trước cơn bão”,  Graham Martin đến Sài Gòn chính thức nhậm chức Đại sứ Mỹ tại VNCH. Lúc đầu Thiệu rất dè dặt vì, với bản tính đa nghi, biết Martin từng chống việc Mỹ mang quân vào Việt Nam (năm 1965), rồi sau đó lại chống việc Mỹ đem không quân vào Thái Lan hồi còn làm Đại sứ ở Thái Lan, Thiệu lo ngại ông ta sẽ là một Cabot Lodge thứ hai (Đại sứ Cabot Lodge là người đứng sau cuộc đảo chính Diệm năm 1963).

Năm 1967, Martin bị Ngoại trưởng Dan Rusk cho về Mỹ ngồi chơi xơi nước vì quá bướng bỉnh chống việc Mỹ mang không quân vào Thái Lan. Nhưng là bạn của Tổng thống Nixon, Martin được Nixon phục chức, bổ làm Đại sứ Mỹ tại Italia một năm sau khi Nixon thắng cử.

Tuy nhiên, sau đó Thiệu nhận ra rằng Martin là một người ủng hộ Nam Việt Nam. Lý do chính là Martin muốn bảo vệ uy tín của Mỹ trong cuộc chiến ở Nam Việt Nam. Ông  là con một mục sư đạo Tin lành dòng Baptist khá nghiêm ngặt ở Mars Hill thuộc bang Bắc Carolina.

Martin có một cháu trai tên là Glenn (phi công trực thăng quân đội Mỹ) tử trận tại cao nguyên Nam Việt Nam. Martin nghiện thuốc lá nặng và làm việc rất khuya, lúc nào  cũng trầm lặng, kín đáo. Ông rất ít giao thiệp với các vị đại sứ khác, trừ Đại sứ Pháp Merillon vì hai tòa đại sứ nằm sát nhau.

Nhân viên sứ quán thấy Martin khó gần và cho rằng ông còn lạnh lùng hơn cả Bunker có biệt danh là “Đại sứ tủ lạnh”. Tổng thống Thiệu gọi Martin là “ông Cà phê” vì hồi ấy Sài Gòn có cà phê Pháp nhãn hiệu Martin nổi tiếng.

Martin dường như không thay đổi gì cách tiếp cận của Phái bộ Mỹ đối với quyền lợi cơ bản của Mỹ ở Nam Việt Nam. Tiếp tục công việc và bằng tính toán của riêng mình, Polgar trở thành người “gần cận và tâm phúc nhất của Đại sứ Martin”.

Mối quan hệ của hai  người  ngày càng tốt đẹp mặc dù  Polgar quan hệ thân thiết với các nhà báo Mỹ, điều mà Martin vốn không thích (vì ông từng làm báo địa phương ở Mỹ). Vai trò của Polgar lúc đó mở rộng sang việc giúp đỡ Martin trong việc lựa chọn một cấp phó mới, và sau cùng là cân nhắc hộ Martin kế hoạch di tản những quan chức cao cấp của Sứ quán.

Martin cũng sử dụng CIA Sài Gòn vừa là kênh thông tin vừa là công cụ gây ảnh hưởng lên giới tướng lĩnh chính quyền Sài Gòn, y hệt cách mà ông Bunker – người tiền nhiệm của Martin – đã làm. Như những gì LaGueux – cấp phó của Polgar- chứng kiến, một trong những lý do là CIA Sài Gòn biết giữ kín những tính toán bí mật của Đại sứ Martin ngay cả trong các quyết định riêng theo thẩm quyền của văn phòng này.

CIA Sài Gòn dùng các mối quan hệ của mình để giám sát và phần nào kiềm chế Tổng thống Thiệu. Các kênh đặc biệt này là Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và cố vấn an ninh cho Thiệu là Tướng Đặng Văn Quang. Thỉnh thoảng CIA cũng sử dụng Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư lệnh  Cảnh sát kiêm Giám đốc Cơ quan Tình báo quốc gia của chính quyền Thiệu. Vai trò của CIA Sài Gòn sau  Hiệp định Paris chỉ là tranh thủ tìm một hướng mới khả dĩ cho người Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam trong danh dự.

Nước cờ di tản mới của Polgar

Sau khi mất Biên Hòa, trực giác dẫn dắt Polgar lao vào một cuộc thương lượng cho ngày đầu hàng của VNCH. Trong bản báo cáo đầy thất vọng ngày 10/4, Polgar tiên  đoán người Mỹ sẽ thất bại trong việc gây áp lực với Hà Nội.

Thiệu đã mất  hết tín nhiệm, còn Thủ tướng Khiêm thì không có may mắn trong việc tập hợp một chính phủ liên hiệp với ý định  thuyết phục Hà Nội chấp thuận việc đầu hàng muộn hơn của VNCH. Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn chẳng  may mắn hơn Khiêm khi ông ta được đề nghị thay Khiêm làm Thủ tướng.

“Thế là cuộc chiến đã kết thúc”-Polgar buồn rầu nghĩ, khác hẳn với nhận thức hồi cuối tháng 2/1975 khi chính ông ta cho rằng “một viễn cảnh khá cho một kết cục tương đối thuận lợi” vì cho phép người Mỹ rút khỏi cuộc chiến Việt Nam trong danh dự.  Nhưng các biến cố trong tháng 3/1975 làm thay đổi tất cả.

Polgar đề ra bốn việc phải làm ngay là tăng tốc cuộc di tản người Mỹ nhưng phải tránh gây hoảng loạn; phát đi thông điệp mạnh mẽ tới Liên Xô và Pháp để dàn xếp việc Bắc Việt ngừng tấn công; chủ động  thay thế Thiệu bằng một chính phủ liên hiệp; và thu xếp một cuộc di tản trong trật tự cho quan chức, sĩ quan VNCH và gia đình họ.

Theo Polgar, bốn việc này mà thành công thì ít nhất người Mỹ cũng đã gia ơn cho VNCH, đồng thời khiến Hà Nội hoàn thành việc loại bỏ Thiệu  và sự có mặt của  Mỹ tại Nam Việt Nam mà không cần phải đưa xe tăng vào Sài Gòn.

Tổng thống Ford đã có tờ trình về cuộc di tản của người Mỹ và người Việt trong chính quyền VNCH nên, Trưởng phân ban Đông Á của CIA Shackley muốn Polgar hiểu  rằng Washington rất quan tâm đến việc di tản của nhân viên CIA và mạng lưới chân rết người Việt ở Nam Việt Nam.

Polgar đảm bảo với Shackley rằng cho đến ngày 11/4 thì mọi chuyện vẫn trong vòng kiểm soát. Nhưng kịch bản bi quan của cuộc di tản do Phó văn phòng CIA Sài Gòn LaGueux thảo ra đến tay tổng hành dinh CIA vào ngày  12/4, trong đó nhận định cuộc di tản trong trật tự cho tất cả người Mỹ và người Việt làm việc cho Mỹ sẽ khó mà thực hiện được nếu không có sự can thiệp của quân đội Mỹ, bởi vì bản thân cuộc di tản sẽ gây ra cú sốc về tâm lý và chính trị cực kỳ lớn.

CIA Sài Gòn cho rằng, nước Mỹ rõ ràng phải có trách nhiệm di tản ít nhất 250 ngàn người, chưa kể hàng ngàn sĩ quan quân đội VNCH và công chức chính quyền Sài Gòn cùng gia đình họ. Nhưng không có cơ sở khẳng định chắc chắn rằng Bắc Việt sẽ để yên cho Mỹ thực hiện cuộc di tản đại quy mô này diễn ra.

Trong bất kỳ trường hợp nào, sự sụp đổ của VNCH  đều làm cho Sài Gòn náo loạn vì binh lính VNCH thất trận và sự hoảng sợ của dân chúng sẽ không cho phép thực hiện được cuộc di tản quy mô lớn một cách trật tự  chỉ trong vòng hai đến ba ngày.

Polgar lường trước rằng, sự hoảng loạn là hậu quả lập tức của bất kỳ cố gắng nào để thu xếp một cuộc di tản quy mô lớn cho hơn một triệu người miền Nam Việt Nam, trong đó  hơn một nửa phải thỉnh cầu để được di tản.

Polgar có bằng chứng rằng một bộ phận quân đội VNCH đang phải  giữ các nhân viên dân sự người Mỹ ở Nam Việt Nam như là một điều kiện giúp  đảm bảo cho sự an toàn và chắc chắn được di tản của chính họ.   Sự lo ngại  này khiến cho tổng hành dinh CIA và CIA Sài Gòn bắt đầu theo đuổi một chiến lược khác, mà sau này mới biết là không thích hợp.

Ngày 17/4/1975, Kissinger gửi mật điện thúc giục Đại sứ Martin: “Hãy ra đi cho mau, và ngay lập tức”, nhưng Martin cố tình câu giờ vì sợ chính quân đội VNCH sẽ quay súng bắn vào người Mỹ, nếu người Mỹ di tản quá sớm bỏ rơi Nam Việt Nam. Ông ta sốt ruột phái người ra Hà Nội rồi khẩn thiết yêu cầu Kissinger đàm phán với Hà Nội để cố gắng có được 2 tuần thu xếp một cuộc di tản trong trật tự. Trong lúc nước sôi lửa bỏng ấy, Polgar không điều hành được các nhân viên CIA mà chỉ lo đôn đáo gặp ký giả Browne của tờ Time và nguồn tin người Hungary trong Trại Davis, khiến ông Martin nổi đóa dọa “thiến” Polgar.

Còn nữa
Tô Nam lược dịch

 

Giờ phút định mệnh – Kỳ VII

Tháng Tư 11, 2011 Bình luận đã bị tắt

Câu trả lời từ Tây Ninh

TP – Ngày 2/4/1975, Tổng thống Thiệu miêu tả kế hoạch của mình với Trưởng phân ban Đông Á của CIA Shackley và trùm CIA Sài Gòn Polgar về những nỗ lực tử thủ và ổn định tình thế cho VNCH, song nó đã bị “nhốt vào rọ” và bị trì hoãn thực hiện bởi các chính trị gia đầy đố kỵ của Nam Việt Nam.

Bản đồ của CIA về hướng tấn công của quân giải phóng quanh Sài Gòn, tháng 4/1975

CIA không ủng hộ đảo chính

Thiệu lập bộ tư lệnh hành quân lưu động nằm trong Bộ Tổng tham mưu của tướng Cao Văn Viên. Nhưng các tướng lĩnh thất trận ở cao nguyên và Huế như Phạm Văn Phú, Lâm Quang Thi, Hồ Văn Kỳ Thoại, Nguyễn Văn Khánh… lại bị phạt giam lỏng tại đây để viết kiểm điểm.

Còn các chính trị gia lại khẩn trương xúc tiến thiết lập một chính phủ Nam Việt Nam gồm nhiều thành phần có đủ sức nặng và cùng chung mối quan tâm đến việc đàm phán với Bắc Việt về chuyện ngừng bắn.

Hôm sau,  Polgar báo cáo về tổng hành dinh CIA rằng tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ liên kết với  Chủ tịch Thượng viện VNCH Trần Văn Lắm tập hợp một danh sách nhân sự dự kiến cho chính phủ như vậy.

Đúng lúc Thiệu có thể đàn áp ý định  này (tướng Đặng Văn Quang và tướng Nguyễn Khắc Bình – Tư lệnh cảnh sát quốc gia, thậm chí cho Polgar biết kế hoạch chi tiết đàn áp các phần tử đối lập), thì Dân biểu ở Thượng viện VNCH lại nhất trí yêu cầu phải có một nhà lãnh đạo mới  thay thế Thiệu.

Đề cập bóng gió về chủ đề này với Đại sứ Martin, Polgar  cho rằng Thiệu thiếu khôn ngoan và  linh hoạt để xử lý những thành phần bất đồng trong chính phủ VNCH. Hơn nữa, nếu Tổng thống Thiệu tiếp tục tại vị, Bắc Việt sẽ đi đến một chiến thắng quân sự.  Giám đốc CIA Colby tỏ ra nóng nảy, chỉ thị Polgar không được can dự vào bất kỳ hoạt động nào nhằm lật đổ Thiệu.

Lúc này, tướng Charles Timmes được CIA giao cho vai trò liên lạc viên giữa CIA và nhóm tướng lĩnh trẻ của quân đội VNCH, mà ông Timmes đã kết làm bạn trong những ngày tháng ông là trưởng phái đoàn cố vấn Mỹ chiến trường (năm 1962-1964, tướng Timmes  được chọn làm người đứng đầu phái đoàn cố vấn Mỹ ở VNCH).

Khi biết tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ đang tìm cách đảo chính Thiệu, tướng Timmes chở Đại sứ Martin trên chiếc Volkswagen của ông tới gặp tướng Kỳ tại nhà (trong sân bay Tân Sơn Nhất), và hai người cố làm cho tướng Kỳ tin rằng họ sẽ ủng hộ ông ta làm tổng thống tương lai nếu ông biết kiên nhẫn chờ đợi và đừng chống lại Thiệu. Nhưng có nhiều dấu hiệu khác cho thấy một cuộc đảo chính có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Và Đại sứ Martin lẫn CIA không ủng hộ tướng Kỳ làm đảo chính.

Sáng 8/4, một máy bay A-37 của viên phi công VNCH đảo ngũ theo Bắc Việt đánh bom Dinh Độc lập. May mắn là bom chỉ làm sập văn phòng của tướng Quang, cố vấn an ninh của Thiệu. Trước việc quân đội Bắc Việt tiếp tục khai thác lợi thế của họ trên chiến trường, phản ứng yếu ớt của VNCH cũng như Phái bộ Mỹ y như là “một chú hươu ngơ ngác chôn chân khi ngọn đèn pha sáng chói rọi vào mắt”.

Cùng ngày 8/4, bộ phận CIA ở Tây Ninh báo cáo rằng Bắc Việt đã quyết định một chiến dịch tấn công thần tốc để giải phóng miền Nam cho dù chính quyền Thiệu sụp đổ hay là được Mỹ tăng viện. Tức là sẽ không có việc đàm phán cũng chẳng có chuyện thành lập một chính phủ liên hiệp, mà “quân đội Bắc Việt sẽ tấn công Sài Gòn trong thời gian thích hợp”.

Ngày định đoạt

Trong lúc ấy, Polgar nhận thấy Phái bộ Mỹ vẫn giống như một “con tàu không bánh lái” mặc dù Đại sứ Martin đã trở lại Sài Gòn điều hành. Ngày 9/4, Polgar  than phiền về việc  quá lãng phí thời gian để tranh cãi về tính hợp lệ của những tin xấu đổ  về từ các nguồn tin tình báo của mình, và lưu ý rằng, gia đình những người Việt làm cho Mỹ và công chức chính quyền VNCH ùn ùn mang theo đồ đạc dồn ứ ở cảng Sài Gòn, trong khi hai tàu Mỹ  rời cảng lại rỗng không vì Tòa Đại sứ Mỹ không cho lệnh chuyên chở.

Đại sứ Martin một mặt vẫn cố gắng lái Washington vào việc viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH, mặt khác, tìm cách duy trì cảm giác mọi hoạt động  vẫn bình thường ở Sài Gòn dù trên thực tế tình hình mỗi ngày một tồi tệ.

Cùng trong báo cáo này, Polgar nhận định, quân đội Bắc Việt sẽ tấn công nhằm vào các tỉnh lỵ gần Sài Gòn để tạo đòn quyết định đánh chiếm Sài Gòn trước tháng sáu.  Polgar cũng lưu ý, trong vòng hai tuần gần nhất, nội các Thiệu chẳng có hoạt động điều hành gì cả, thậm chí, suốt một tuần liền, Đại sứ Martin không trông thấy mặt Thiệu.

Đại sứ Martin đồng ý với nhận định, ông Thiệu đang ngồi ở vị trí quá sức của ông ta nhưng không thể đẩy ông ta đi khi chưa tìm được một “giải pháp thay thế sống còn”. Polgar kết luận sẽ không có chuyện “tránh được một cuộc đổ máu vô ích chỉ bằng việc Thiệu từ chức và một chính phủ liên hiệp đủ tin cậy đề nghị thực thi điều khoản Hiệp định Paris về sự đầu hàng trong trật tự” sau khi Mỹ rút đi.

Đúng lúc ấy, mật lệnh của Giám đốc CIA Colby được đánh sang Sài Gòn: Những người Việt làm cho CIA đều phải rời khỏi Nam Việt Nam ngay; nếu thiếu phương tiện tại chỗ, Colby sẽ điều thêm máy bay thương mại sang Sài Gòn. Nhưng chính Polgar lại  vẫn hoài nghi về tính khẩn cấp của mệnh lệnh này.

Tại bữa tiệc tối ở văn phòng CIA Sài Gòn, Chip Schofield nhân viên Phái bộ Mỹ hỏi Polgar rằng “trong hoàn cảnh nào thì yêu cầu di tản Phái bộ Mỹ?”.  Lúc đó (ngày 9/4)  quân đội Bắc Việt bắt đầu tấn công Xuân Lộc (nay thuộc tỉnh Đồng Nai). Polgar  thừa nhận việc mất Biên Hòa và con đường cao tốc duy nhất từ Sài Gòn xuống Vũng Tàu đã bị chặn. Kế hoạch di tản trong một kết cục như thế là phi thực tế.

Ông ta còn lo ngại, bất cứ một thông báo nào về cuộc di tản tổng thể đưa ra lúc này đều sẽ gây hoảng loạn cho Phái bộ Mỹ. Vì thế, trong mọi  trường hợp Polgar phải ngăn cản một chính phủ liên hiệp dù chỉ để che đậy một cách mong manh kết cục phải đầu hàng sắp ập đến với Nam Việt Nam, có vậy mới ngăn ngừa được những rắc rối xảy đến cho cuộc di tản khẩn cấp của người Mỹ.

Quan điểm này trái ngược với báo cáo của Polgar ngày 9/4 gửi cho tổng hành dinh dự báo về một cuộc tấn công mang tính quyết định của quân đội Bắc Việt. Sau đó, Polgar nhanh chóng được chỉ định bắt đầu với vai trò trọng yếu chính thức trong nỗ lực đàm phán để có một giải pháp  cho phép người Mỹ và quân đội VNCH triệt thoái  trong trật tự, và có lẽ  chỉ cần duy trì một bộ phận nhỏ của Phái bộ Mỹ.

Một lý do gây tâm lý bi quan về sự thành công của kế hoạch di tản là áp lực của quân đội. Phó văn phòng CIA Sài Gòn  LaGueux -người chứng kiến từ trên máy bay cảnh tháo chạy thê thảm khỏi Cao nguyên và Đà Nẵng của quân đội VNCH- thực sự hoảng sợ cho cuộc di tản khẩn cấp của người Mỹ nếu diễn ra trong một tình trạng hỗn loạn như vậy.

Polgar đồng ý với sự nhìn nhận này của LaGueux rằng cuộc di tản khỏi Sài Gòn trong trật tự của tất cả người Mỹ và, mọi thỏa hiệp, dàn xếp của Nam Việt Nam không chắc thành công trong hoàn cảnh đang hỗn loạn tương tự như vậy. Bởi thế Polgar ủy quyền cho LaGueux chuẩn bị  một kịch bản di tản trong trường hợp xấu nhất gửi về  Washington.

Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị T.Ư Đảng quyết định: Thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4, không để chậm. Với phương châm “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.  Từ thời khắc này, số phận của chế độ Sài Gòn đã được định đoạt.

Ngày 8/4/1975, tại Sở Chỉ huy Miền, ông Lê Đức Thọ công bố quyết định ngày 6/4 của Bộ Chính trị thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch Sài Gòn – Gia Định. Đại tướng Văn Tiến Dũng là Tư lệnh; ông Phạm Hùng (Bí thư T.Ư Cục miền Nam) là Chính ủy.

Các ông Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện là  Phó Tư lệnh; ông Lê Quang Hòa là  Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị; ông Lê Ngọc Hiền là quyền Tham mưu trưởng.

Ông Lê Đức Thọ tham gia T.Ư Cục và Đảng ủy mặt trận. T.Ư Cục phân công ông Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư T.Ư Cục, đặc trách phong trào nổi dậy của quần chúng, nhất là ở Sài Gòn; ông Võ Văn Kiệt, Ủy viên Thường vụ T.Ư Cục, chỉ đạo việc tiếp quản thành phố.

(Nguồn: Tổng Hành dinh trong mùa xuân đại thắng của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

————–

Còn nữa

Tô Nam
Lược dịch