Trang chủ > Chiến tranh Việt Nam > Đập tan “cánh cửa thép” Xuân Lộc (kỳ 1)

Đập tan “cánh cửa thép” Xuân Lộc (kỳ 1)

Tháng Tư 30, 2013

QĐND Online – 5 giờ 40 phút ngày 9-4-1975, Quân đoàn 4 và các lực lượng phối thuộc đã nổ súng tiến công Xuân Lộc, một trong những khu vực phòng thủ mạnh nhất trên tuyến phòng thủ Sài Gòn của địch. Phá được “cánh cửa thép” Xuân Lộc, đồng nghĩa với việc ta sẽ mở rộng thêm cánh cửa phía Đông và làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ còn lại của địch ở xung quanh Sài Gòn, tạo thêm thế và lực mới cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng…

Kỳ 1: Thế trận giằng co

Thị xã Xuân Lộc (tỉnh Long Khánh) nằm trên đường số 1, cách Sài Gòn 60 km về phía Đông Bắc, là một cụm mục tiêu kiên cố, gồm tiểu khu Long Khánh liên hoàn với căn cứ Sư đoàn 18 ngụy.

Sau khi thành phố Đà Nẵng bị quân ta tiến đánh và làm chủ, tướng Uây-en, Tham mưu trưởng lục quân Mỹ đã trực tiếp đôn đốc quân ngụy tổ chức một tuyến phòng thủ mới, kéo dài từ Phan Rang qua Xuân Lộc đến Tây Ninh, trong đó Xuân Lộc là điểm trọng tâm, nhằm ngăn chặn quân ta tiến theo đường số 1 và đường số 20 đánh vào Biên Hòa và Sài Gòn. Khi đó, Uây-en đã nói với Nguyễn Văn Thiệu và các tướng ngụy là phải giữ cho được Xuân Lộc, mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn.

Do vậy, tại Xuân Lộc, địch đã tập trung một lực lượng lớn, bao gồm: Sư đoàn 18 (còn đủ 3 chiến đoàn), Trung đoàn 5 thiết giáp, 8 tiểu đoàn bảo an, 20 đại đội địa phương quân, hàng nghìn cảnh sát và phòng vệ dân sự. Lực lượng ứng cứu trực tiếp có Lữ đoàn thiết giáp 3 ở Biên Hòa, Lữ đoàn dù 1 ở Sài Gòn; ngoài ra còn có các sư đoàn bộ binh và lực lượng binh chủng của hai quân khu 3 và 4.

Cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 4 phát triển tiến công chỉ huy sở Sư đoàn 18 ngụy tại núi Thị-Xuân Lộc (tháng 4-1975). Ảnh tư liệu

Được giao nhiệm vụ đánh chiếm Xuân Lộc, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 xác định đây là một khu vực phòng thủ mạnh của địch ở cửa ngõ Sài Gòn, nên phải lấy diệt địch bên ngoài là chính, tạo thế bao vây cô lập, khi có thời cơ sẽ tiến công cứ điểm. Do đó, Đảng ủy đề ra phương châm “Đánh chắc, tiến chắc”. Nhưng trước tình hình thực tế là quân địch đang hoang mang, dao động, cần phải “khẩn trương, táo bạo”, sử dụng một bộ phận bộ binh, tập trung toàn bộ xe tăng, pháo binh tiến công thẳng vào sở chỉ huy tiểu khu và sư đoàn 18, nếu địch tan vỡ thì nhanh chóng đánh chiếm Xuân Lộc.

Sư đoàn 7 được giao nhiệm vụ tiến công hướng chủ yếu, từ phía Đông đánh chiếm căn cứ Sư đoàn 18.

Sư đoàn 341 đảm nhận hướng thứ yếu, từ phía Bắc đánh xuống, chiếm tiểu khu Long Khánh và các mục tiêu trong thị xã.

5 giờ 40 phút ngày 9-4-1975, Quân đoàn 4 nổ súng tiến công Xuân Lộc. Các trận địa pháo Quân đoàn, sư đoàn đồng loạt nhả đạn. Một giờ sau, bộ binh bắt đầu xung phong.

Hướng Bắc, Trung đoàn 266 (Sư đoàn 341) do sư đoàn trưởng Trần Văn Trân và Chính ủy Trần Nguyên Độ trực tiếp chỉ huy nhanh chóng thọc sâu chiếm khu thông tin, khu cố vấn Mỹ, khu cảnh sát…các mũi đều phát triển thuận lợi vì trước trận đánh mấy ngày, công tác trinh sát nắm tình hình tại khu vực tác chiến được ta tiến hành khá kỹ.

Đến 9 giờ 30 phút, các chiến sĩ Phạm Lê Canh, Nguyễn Văn Trọng (Tiểu đoàn 5) và Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Minh Đức (Tiểu đoàn 7) cùng đồng đội mang lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” tiến về dinh Tỉnh trưởng Long Khánh. Địch tập trung phản kích quyết liệt, buộc lực lượng của Trung đoàn 266 phải dừng lại bên ngoài sở chỉ huy Tiểu khu.

Ở hướng Đông, 8 chiếc xe tăng dẫn đầu Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) tiến công dũng mãnh. Khi còn cách cổng căn cứ Sư đoàn 18 ngụy chưa đầy 200 mét thì 3 chiếc xe tăng của ta bị bắn hỏng , buộc phải dừng lại. Tiểu đoàn trưởng Lèo Viết Cường và Chính trị viên Nguyễn Văn Tạo (Tiểu đoàn 5) bị thương nặng. Phó Tiểu đoàn trưởng tiếp tục chỉ huy đơn vị chiếm được một phần hậu cứ Chiến đoàn 52 ngụy.

Ở vòng ngoài, Trung đoàn 270 (Sư đoàn 341) và Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) đánh bại 2 tiểu đoàn, diệt 7 xe tăng của hai chiến đoàn 43 và 48 từ Tân Phong và Núi Thị vào cứu viện, giải phóng ấp Bảo Toàn trên đường số 1 (Đông Nam thị xã 4 km).

Ở khu vực ngã ba Dầu Giây, Sư đoàn 6 (thuộc Quân khu 7, được phối thuộc cho Quân đoàn 4) diệt 5 chốt địch trên đường 1, đoạn từ Hưng Nghĩa đến đèo Mẹ Bồng Con, thu 2 khẩu pháo 105, buộc Chiến đoàn 52 ngụy phải bỏ Túc Trưng chạy về ngã ba Dầu Giây.

Trong ngày chiến đấu đầu tiên, ta đã chiếm được 1/2 thị xã, toàn bộ khu hành chính tiểu khu, đưa được 3 tiểu đoàn vào chốt trong thị xã và thực hiện chia cắt từ ngã ba Dầu Giây đến đèo Mẹ Bồng Con. Bộ Tư lệnh Quân đoàn quyết định tiếp tục tiến công, tiêu diệt Sư đoàn 18 và giải phóng thị xã.

Ngày 10-4, Sư đoàn 7 đưa lực lượng dự bị là Trung đoàn 141 và 1 tiểu đoàn cao xạ 37 ly và 57 ly hỗn hợp, đột phá từ hướng Bắc xuống, cùng với Trung đoàn 165 tiến đánh căn cứ Sư đoàn 18. Bị  chiến đoàn 52 và Trung đoàn 5 thiết giáp phản kích quyết liệt, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 141) không mở được cửa đột phá. Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 141 cũng chỉ chiếm được ngã tư ở ĐôngNam hậu cứ Chiến đoàn 52. Trung đoàn 165 chiếm được khu gia binh và tiến đến sân bay Cáp Rang. Trung đoàn 209 tiến công thị xã từ phía Nam, gặp tuyến phòng thủ của địch ở Nam sân bay nên phải dừng lại để củng cố bàn đạp.

Sư đoàn 341 đưa thêm Trung đoàn 270 vào thị xã, cùng Trung đoàn 266 đánh địch phản kích, giữ các mục tiêu đã chiếm. Hai tiểu đoàn 5 và 7 (Trung đoàn 266) bốn lần đột phá sân bay Cáp Rang đều bị đánh hất trở lại. Các mũi tiến công trại Lê Lợi, căn cứ Chiến đoàn 43…chiến đấu giằng co với địch dưới tầm hỏa lực bom pháo.

Ngày 11-4, chiến sự tiếp tục diễn ra giằng co, ác liệt ở trong và ngoại vi thị xã Xuân Lộc.

Nhằm tăng cường lực lượng phòng giữ Xuân Lộc, ngày 12-4, địch đổ Lữ đoàn 1 dù từ Sài Gòn xuống ngã ba Tân Phong. Ba ngày sau, chúng tăng cường thêm 2 lữ đoàn thủy quân lục chiến, 1 liên đoàn biệt động quân, 1 trung đoàn bộ binh, 8 tiểu đoàn pháo binh và 2 chi đoàn xe tăng, đưa số lượng tăng thiết giáp lên 300 chiếc. Như vậy, tính cả Sư đoàn 18 và các lực lượng đã được bố trí trước ngày ta nổ súng, tại Xuân Lộc, địch đã tập trung 50% bộ binh, 60% pháo binh, hầu hết xe tăng của Quân đoàn 3 và lực lượng tổng dự bị tương đương một sư đoàn. Như vậy, lực lượng địch ở Xuân Lộc tham gia tác chiến quy mô tới cấp quân đoàn.

Ngoài ra, từ sân bay Biên Hòa và Tân Sơn Nhất, mỗi ngày địch huy động 80 lần chiếc máy bay ném bom, cao nhất là 125 lần chiếc, nhằm chi viện cho các mũi phản kích của bộ binh, xe tăng địch và đánh vào đội hình tiến công của ta.

Sau 3 ngày chiến đấu, ta đã chiếm được một số mục tiêu, diệt một bộ phận sinh lực địch, song chiến sự vẫn diễn biến hết sức phức tạp. Tuy rối loạn, đổ vỡ lớn, nhưng biết được vị trí quan trọng của Xuân Lộc, lại có công sự vững chắc và được tăng cường lực lượng, nên địch vẫn chống trả quyết liệt, gây cho ta tổn thất và tạm thời ngăn được sức tiến công của ta…

Phạm Hoàng Hà (Lược thuật , theo lịch sử Quân đoàn 4)
qdnd.vn

Kỳ 2: Chuyển hoá thế trận, đập tan “cánh cửa thép” bằng binh pháp cô lập, cắt rời

Chuyên mục:Chiến tranh Việt Nam